PHIM NGÀY 30.4.1975
SỰ THẬT ĐÃ PHƠI BÀY:
Đảng cộng sản Vietnam là tay sai Cộng sản Nga Tàu.
Saigon ngày 30.4.1975
Ai chưa chứng kiến 30.4.1975, hãy xem phim này sẽ thấy rõ.
Đảng cộng sản Vietnam là thủ phạm sát nhân dã man, và
nguy hiểm nhất là hủy hoại tinh thần Yêu Nước của Dân Tộc Việt.
________
Vietnam – Les 30 jours de Saigon ngày 30.4.1975 .
Phim Phát trên truyền hình Pháp ngày 5.6.1975.
Hình màu, dài 1 giờ, xuất hiện đủ mọi gương mặt dân chúng tại Saigon từ lực lượng thứ 3 đến những người trong rừng ra, từ thành phần cách mạng 30/4 đến những người chạy loạn, và đủ mọi tâm trạng hồ hởi, lo sợ, khinh khỉnh.
Mặc áo đen, thay mặt Chánh phủ lâm thời trả lời phỏng vấn trong suốt bộ phim là bà Nguyễn Ngọc Tú (?).
Phút 2, trên lễ đài mừng chiến thắng ngày 5/5/1975 có các ông, bà Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Văn Linh, Văn Tiến Dũng, Huỳnh Tấn Phát, Lê Đức Thọ, Nguyễn Hữu Thọ, Tôn Đức Thắng.
Phút 9, một đơn vị bộ đội tạm thời trú đóng ở vườn cây trước dinh Độc Lập, bên hông nhà thờ Đức Bà. Thoáng qua tượng đài Petrus Ký trên Đại lộ Thống Nhứt trước khi bị chính quyền mới dỡ bỏ, dời về nhà Chú Hoả.
Phút 11, một anh cách mạng 30/4 cầm loa: “Chúng tôi chiều nay sẽ tổ chức một cuộc biểu dương lực lượng chưa từng thấy trong suốt 30 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ để chào mừng lực lượng vũ trang nhân dân cách mạng”.
Phút 14, luật sư, cựu dân biểu đối lập, cựu chủ tịch Phong trào Phụ nữ đòi quyền sống, bà Ngô Bá Thành hào hứng nói về vai trò của “Lực lượng thứ ba” và viễn ảnh một chính phủ nhiều thành phần.
Phút 15, kéo đổ tượng Thuỷ quân lục chiến trước trụ sở Hạ Nghị viện (Nhà hát Thành phố).
Phút 20, “Việt Nam quê hương ngạo nghễ” của Nguyễn Đức Quang, đồng ca bỡi những chiến hữu VNCH tữ thũ ỡ Xuân Lộc và bè bạn đang rã ngũ .
Phút 22, một cựu sĩ quan Quân lực VNCH.
Phút 24, phòng tuyến Trảng Bom sáng 27/4/1975. Trận kịch chiến cuối cùng giữa tiếng chuông nhà thờ Hố Nai . Nhân Dân Tự Vệ & người Kinh dân Thượng đều phãi di tãn về phía Nam …
Phút 33, trên xa lộ Biên Hòa , rất gần cầu Saigon, cảnh một đứa nhỏ chừng
10 tuổi bị thương phần mềm nên máu me đầy mặt “thôi chết tui rồi. Lính biểu “đừng chạy, đừng có chạy”. Nó ngồi yên cho băng bó nhưng miệng vẫn tiếp tục la “dạ, chết con rồi, dạ đừng chết nha, tội nghiệp lắm (…), trời ơi máu chảy không ngừng nè, tui bị xe đụng 1 lần rồi giờ còn vầy nữa, có thuốc gì cho con uống hông chú, máu chảy ra hoài vầy chết sao, bắn ngay trán nữa, trời ơi đù má sao ác quá vậy…”.
Phút 44, ông Bùi Quang Thận ôm cờ Mặt trận. Ông Dương Văn Minh tại tiền sảnh dinh Độc Lập: “Tôi trao quyền lực lại cho những người xứng đáng hơn tôi rất nhiều”.
Phút 45, “một vài binh lính của quân đội thất trận vẫn chiến đấu trước Toà đô chánh Saigon”.
Phút 45, Trung tá Cảnh sát Nguyễn Văn Long tự sát dưới chân tượng Thuỷ quân Lục chiến.
Phút 45, chuẩn bị treo cờ Mặt trận tại trụ sở Toà Đô chánh.
Phút 49, một thầy giáo ở Tân Định tập hợp học trò quét dọn đường sá.
Loa phóng thanh thông báo Saigon chính thức thay tên.
Phút 49, mặt sau Chợ Saigon, góc đường Thủ Khoa Huân, Lê Thánh Tôn.
Phút 52, ngồi trong xe chạy từ đại lộ Hàm Nghi qua Trần Hưng Đạo, một cô gái dự báo về các quyền tự do của người dân (giải trí, đi lại, nhảy đầm, báo chí) sẽ bị hạn chế, kiểm duyệt trong những ngày tới đây. “Họ không muốn người dân biết quá nhiều về các quyền tự do mà dân chúng các nước khác được hưởng”. “Mọi người ai cũng sẽ như ai, không còn người giàu, kẻ nghèo”.
“Liệu Saigon có trở thành bản sao của Hanoi?”
“Còn tuỳ…”
“Tuỳ chuyện gì?”
“Tuỳ thuộc việc Chánh phủ Cách mạng Lâm thời có tiếp tục tồn tại hay Hanoi sẽ vào đây nắm quyền. Nhưng chắc chắn cuộc sống không còn như trước.”
“Tại sao phải như trước? Như trước có tốt hơn?”
“Ngoài tình trạng tham nhũng ra thì (như trước tốt hơn)…”
Phút 54, một nhóm bộ đội trên đường Hùng Vương, góc Tôn Thọ Tường.
Phần âm thanh là giọng của một nhân viên chế độ cũ không muốn lên hình vì đã chống cộng tới phút cuối. Ông tuyên bố đã chiến đấu vì lý tưởng tự do cho quê hương ông, không phải vì chế độ ông Thiệu, vốn bị dân chúng chán ghét. Ông bi quan về tương lai sau ngày 30/4. Ông tự hào đã chiến đấu vì “mode de vie” (tạm dịch lối sống / hiến pháp quốc gia) với rất nhiều tự do mà dân chúng miền Nam đã được học và hưởng…
___________________
Những lời vàng ngọc .
1- Ta thà làm quỷ nước Nam còn hơn làm vua đất Bắc.
( Trần Bình Trọng )
2- “Thưa Ngài Đại sứ, tôi biết tình trạng hiện nay rất là nguy hiểm. Đã đến đỗi như vậy Hoa Kỳ cũng có phần trách nhiệm trong đó. Nay ông Đại sứ đến mời tôi ly hương, tôi rất cảm ơn ông Đại sứ. Nhưng tôi đã suy nghĩ kỹ và dứt khoát ở lại với nước tôi. Tôi cũng dư biết rằng Cộng Sãn vào được Sài Gòn, bao nhiêu đau khổ, nhục nhã sẽ trút xuống đầu dân chúng miền Nam. Tôi là người lãnh đạo hàng đầu của họ, tôi tình nguyện ở lại để chia sẻ với họ một phần nào điều đau khổ tủi nhục, nỗi thống khổ của người dân mất nước”.
(Cố TT Trần Văn Hương – 29/4/1975 –
trả lời Đại sứ Hoa Kỳ G. Martin)
3- “Nếu tôi thắng trong cuộc chiến, tôi sẽ không kết án các anh
như các anh kết án tôi. Tôi cũng không hạ nhục các anh như
các anh bôi lọ tôi. Tôi cũng không hỏi các anh câu mà các anh hỏi tôi.
Tôi chiến đấu cho tự do của người dân. Tôi có công mà không có tội.
Các anh không ai có quyền kết tội tôi. Lịch sử sẽ phán xét các anh là giặc đỏ
hay tôi là nguỵ . Các anh muốn giết tôi các anh cứ giết đi. Không cần phải bịt mắt”.
(Cố Đại tá Hồ Ngọc Cẩn – 14/8/1975
bị CS xử bắn tại sân vận động Cần Thơ )
vivi(st)
Bài Đọc Thêm
– Sau 30 năm tị nạn csVN
– Chiến tranh nam bác Mỹ
– Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng
– Hiểm Họa Xâm Lăng – Ngô Đình
– Quốc Ca – Cờ Vàng, Cờ Đỏ
– Ngày Quốc Hận – 30.4.1975
– 30 câu nói về Cộng Sản
– Hồ Chí Minh là tên Diệt Chủng thế kỷ 20
Nghệ sĩ lừa hát mừng ngày Đại Tang Dân Tộc
CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT TẠI MIỀN BẮC
(Ai gây hận thù với nông dân ?)
50 năm trước, tại miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ là nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, dưới sự lãnh đạo của ông Hồ Chí Minh và Đảng Lao động Việt Nam, tức là đảng Cộng sản sau này, đã diễn ra một cuộc cách mạng được chính những người phát động mô tả là “long trời lở đất”. Đó là cuộc cải cách ruộng đất.
* Vô đây xem cải cách ruộng đất – phần 1
http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform/LandReform50YearsAgo_NAn-20060515.html-02082008070715.html
* Vô đây xem Cải Cách Ruộng Đất – phần 2
http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/landreform
NHÂN VĂN GIAI PHẨM
(Ai gây hận thù với Sĩ Phu ?)
Nhận định của những nhà nghiên cứu về vụ án Nhân Văn Giai Phẩm :
Phong trào Nhân Văn Giai Phẩm đã đưa đến vụ án Nhân Văn Giai phẩm với con số không nhỏ cả văn nghệ sĩ, nhà hoạt động văn hoá lẫn người dân bình thường bị đầy đoạ vì có liên quan nhưng không rõ là bao nhiêu.
Vô đây xem đầy đủ :
http://www.rfa.org/vietnamese/SpecialTopic/Nhanvangiaipham
Trại tù man rợ của đảng csVN, 30.4.1975.
Khi Đất Nước Hòa Bình Thống Nhất .
Vậy, Ai gây HẬN THÙ ?
30.4 : Ngày Để Tang hay Ăn Mừng đại thắng ?
39 năm Đảng csVN ăn mừng Đại Thắng,
năm nay đảng kêu gọi XÓA BỎ HẬN THÙ ?
Vậy, ai xóa thù hận ? (Ai gây hận thù thì tự xóa chứ kêu gọi ai xóa ?)
http://www.voatiengviet.com/content/le-30-thang-tu-de-tang-an-mung-hay-co-hoi-de-hoa-hop-hoa-giai/1906701.html
XÔI THỊT Cộng Sản VietNam !
Cộng Sản là chủ nghĩa khát máu với chủ trương bạo lực cách mạng. Người CS cuồng tín với thói quen thanh toán, giết người. Chúng không chỉ tàn ác với người mà chúng cho là kẻ thù, và chúng còn tàn ác ngay với cả chính đồng chí của chúng.
Stalin đã sát hại 2/3 Ủy Viên Bộ Chính Trị, khoảng 3/4 Ủy Viên Trung Ương thời Lênin và khoảng 20 triệu dân Nga. Mao Trạch Đông đã hãm hại nhân vật thứ 2 như Lâm Bưu, Chủ Tịch Lưu Thiếu Kỳ, Bành Chân, Bành Đức Hoài… Chính Đặng Tiểu Bình cũng 3 lần bị hạ bệ và khoảng 60 triệu dân Trung Cộng. Cộng Sản VietNam cũng không thoát khỏi những hành vi man rợ thuộc loại này.
Do che giấu bưng bít, thông tin, dư luận khó biết đến các cuộc thanh trừng nội bộ. Việc này như một quy luật phổ biến trong chế độ Cộng Sản để bảo vệ quyền lợi cá nhân và phe nhóm quyền lực.
NHỮNG SỰ CHẾT BÍ ẨN :
https://vivi099.wordpress.com/2015/03/15/bong-hinh-bay-lam-01-2/
Chỉnh đốn đảng hay chọn Dân chủ ?
Vivi: Tác giả là một kẻ có học vị mà “ăn cơm Quốc Gia thờ ma Cộng Sản” tự thú tội ác ngây ngô hay tham gian đã tiếp tay với csVN phá nát một Chính Thể Tự Do và Dân Chủ Miền Nam Việt Nam.
Đoàn Viết Hoạt
Gửi tới BBC từ Hoa Kỳ
Cập nhật: 02:47 GMT – thứ ba, 28 tháng 2, 2012
Ông Trương Tấn Sang, Chủ tịch nước Việt Nam hiện nay, gần đây có tuyên bố được mọi người chú ý, “Một con sâu đã nguy hiểm rồi, một bầy sâu là ‘chết cái đất nước này”.
Tuyên bố này nói lên một sự thực còn tồi tệ hơn: một nồi canh với một bầy sâu thì chỉ còn là một nồi canh sâu? Mà đã là nồi canh sâu thì còn tiếc gì nữa mà không đổ bỏ đi. Ai còn có thể ăn được, trừ khi quá nghèo khổ không ăn thì chết.
Các bài liên quan
Đảng đang kêu gọi chỉnh đốn để hy vọng trừ diệt bầy sâu, làm trong sạch đảng. Đảng nói thế chứ dân không tin thế.
Dân gian hiện nay có câu: “Đảng cứ nói, dân cứ làm”, và Đảng nói đường đảng, dân làm đường dân.
Dân cứ làm như thế nào? Tiêu cực thì dân cấy sâu vào nồi canh của đảng. Dân nuôi các công an địa phương; hối lộ cảnh sát giao thông; móc ngoặc với cán bộ thoái hóa.
‘Nồi canh đảng’ ngày càng có nhiều sâu, sâu ngày càng to và mập hơn. Dân hoan hô nghị quyết, hoan hô đảng công khai trong các buổi họp tổ dân phố, nhưng ‘chửi đảng’ thậm tệ nơi riêng tư, với nhau, trong gia đình, ngoài đường phố, tại các quán nước, trên xích lô, trong taxi.
Sống hai mặt
Mọi người đều phải sống hai mặt, nói một đằng làm một nẻo, trước mặt nói tốt, làm tốt, vắng mặt nói xấu, làm xấu.
Dân phải làm như thế mới sống được, mới không bị đi tù, không bị theo dõi, trù úm; mới hy vọng làm ăn, học hành, sinh sống yên ổn được.
Nhưng nếu dân cả nước cứ phải làm như thế thì than ôi, đất nước còn gì, dân tộc còn gì; còn gì để tự hào dân tộc, còn đâu là tiêu chuẩn đạo đức, là trật tự xã hội, là ‘Công bằng, Văn minh’?
Còn đâu Văn hiến chi bang, đạo thống Tiên Rồng? Tiền đồ dân tộc và tương lai đất nước đi về đâu? Người Việt nào có lòng mà im lặng được trước tình trạng băng hoại đạo đức, tinh thần toàn diện như thế?
Trong khi đó thì đảng nói gì và làm gì? Cần sửa sai và chỉnh đốn. Chỉnh đốn đảng để đưa đất nước tiên lên chủ nghĩa xã hội. Nhưng như câu nói ngoài dân thể hiện thực tế: càng chỉnh càng đốn. Liệu còn chỉnh đốn được không? Hay câu hỏi chính xác hơn là: thể chế chính trị cộng sản có chỉnh đốn được không?
Nhiều cựu lãnh đạo cộng sản thế giới đã thú nhận chế độ cộng sản không thể sửa sai được. Từ ông Gorbachev đến ông Yeltsin đều nói như thế.
Ông Gorbachev giờ đây còn tỏ ra ân hận là mình vẫn cố sửa đổi để mong cứu Đảng Cộng sản Liên Xô vào những tháng cuối cùng của chế độ cộng sản. Ông tiếc là đã không bỏ đảng CS sớm hơn.
Yeltsin, Gorbachev là những lãnh tụ cộng sản quốc tế lừng danh. Họ không phải là những người chống cộng. Họ phải biết rõ hơn bất kỳ nhà lãnh đạo cộng sản nào ở Việt Nam về bản chất của hệ thống chính trị cộng sản.
Họ đã can đảm mở đường cho Nga trước, Liên Xô sau, dứt bỏ chủ nghĩa cộng sản và hệ thống chính trị cộng sản. Họ đã không vì quyền và lợi riêng mà cố duy trì cho bằng được cái chủ nghĩa và hệ thống chính trị cộng sản đã lỗi thời đó.
Đây là chủ nghĩa và hệ thống ngoại lai mà một người Việt, ông Lý Đông A từ đầu thập niên 1940, đã khẳng định là thứ chủ nghĩa “lạc hậu non 100 năm”, thất bại trong kiến thiết tại Liên Xô và sẽ hoàn toàn sụp đổ trên toàn thế giới.
Không thể sửa sai một chủ nghĩa và một cơ chế chính trị đã sai lầm từ bản chất, từ các quan điểm nền tảng. Chỉnh đốn đảng để thực hiện khẩu hiệu trên, do đó, chỉ là công sức vô ích, dù thiện chí có thực đến thế nào.
Di sản trên tường một nhà máy cũ từ thời cộng sản ở Krasnoyarsk, nước Nga
Đối với người dân Việt, giải pháp duy nhất tốt lúc này, cho chính đảng cộng sản và cho đất nước, không phải là chỉnh đốn Đảng Cộng sản, mà là trả lại quyền tự quyết cho toàn dân – là dân chủ, dân chủ chân chính và toàn diện.
Dân chủ chân chính, để mọi thành phần dân chúng, cụ thể là hai thành phần còn tin theo cộng sản và không tin theo cộng sản, đều được quyền cùng tồn tại, cùng tự do hoạt động, cùng cạnh tranh lành mạnh, để đưa ra và thực hiện các chương trình kiến thiết đất nước. Cạnh tranh trong ôn hòa, công khai, minh bạch, trong sáng, để toàn dân cùng so sánh và tự do chọn lựa.
Dân chủ toàn diện để người dân thực sự làm chủ được mọi hoạt động của mình trong mọi lãnh vực, từ kinh tế thương mại, đến văn hóa, giáo dục, thông tin, tôn giáo, tư tưởng và chính trị. Đất nước tiến được hay không là do toàn dân có được môi trường và điều kiện để sinh họat tự do, tích cực, có hiệu quả trong mọi lãnh vực hay không.
Pháp trị thay cho đảng trị
Môi trường và điều kiện cần thiết đó chính là hệ thống chính trị Dân chủ Pháp trị, không phải độc tài Đảng trị hiện nay.
Hiến pháp và luật pháp phải có giá trị phán quyết tối cao, đứng trên mọi đảng phái, không một cá nhân, một đảng phái nào, có thể đứng ngoài và đứng trên Hiến pháp và luật pháp được, kể cả người đứng đầu chính quyền và đảng cầm quyền. Dân chỉ thực sự làm chủ khi được tự do sinh họat trong một xã hội như thế.
Ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hãy chứng tỏ bản lãnh chính trị và tầm nhìn thời đại để thay đổi triệt để và cỗi gốc, để từ bỏ độc tài đảng trị và chấp nhận Dân chủ Pháp trị.
Việc đầu tiên là chấp nhận một lộ trình dân chủ hóa. Dù công bố hay không, bước đầu tiên trong lộ trình này là thả tất cả những tù nhân đang bị giam giữ hay quản chế vì lý do tư tưởng, chính trị và tôn giáo. Bước tiếp theo là hủy bỏ các điều khoản trong Bộ Luật Hình sự và các Luật khác mà từ trước đến nay vẫn được sử dụng để đàn áp, bắt giữ những người bất đồng chính kiến.
Sau đó, ngưng bắt giữ những người phát biểu, một cách ôn hòa bất bạo động, các ý kiến khác biệt với đảng và nhà nước cộng sản. Cuối cùng là ban hành các đạo luật cho phép người dân thành lập các tổ chức chính trị và dân sự, và được họat động công khai hợp pháp, như là tiếng nói đối lập với Đảng Cộng sản đang cầm quyền.
Lộ trình dân chủ, với những bước đi tuần tự và cụ thể như thế, sẽ tạo ra một bầu khí văn hóa chính trị mới, gây phấn chấn cho mọi người Việt, khơi dậy sức sống và sức sáng tạo cho toàn dân trong mọi lãnh vực họat động xã hội, nhất là trong những lãnh vực mà đến nay vẫn hết sức nghèo nàn, sơ cứng vì bị đảng kiểm sóat chặt chẽ.
Việc đảng Đảng Cộng sản Việt Nam thực thi một lộ trình thay đổi chính trị ôn hòa công khai như thế là điều mà những người Việt quan tâm trong và ngoài nứơc hằng mong đợi, để đất nước và nhân dân sớm chuyển mình sang giai đọan cất cánh. Nhưng cũng rất nhiều người không tin rằng ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam muốn và dám làm như thế.
Không muốn vì nó có thể dẫn đến hậu quả là đảng mất quyền vì không được đa số nhân dân tín nhiệm. Không dám vì để thực hiện được điều này ban lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay phải vượt qua được chính mình, được chính nỗi lo sợ mất những đặc quyền đặc lợi hiện đang chiếm giữ.
Đảng chỉ dám chỉnh đốn đảng của mình. Nhưng chỉnh đốn chỉ là vô hiệu bởi không thể vừa đá bóng vừa thổi còi, vừa sản sinh ra sâu lại vừa tự diệt sâu, lấy bầy sâu diệt từng con sâu.
Sâu được sản sinh ra và nuôi dưỡng bởi chính hệ thống độc quyền, đặc quyền đặc lợi. Muốn trừ sâu cần chấm dứt độc quyền, cần để xuất hiện những cơ cấu nằm ngoài và độc lập với các cơ cấu của Đảng và Nhà nước.
Các cơ cấu độc lập này phải được bảo vệ bằng luật pháp công minh của hệ thống pháp trị. Thiếu những cơ cấu đó chỉnh đốn chỉ là biện pháp xoa dầu cho người sắp chết, như chính ông Truơng Tấn Sang đã cảnh báo: Một bầy sâu là ‘chết’ cái đất nước này.
Nhưng liệu ‘bầy sâu’ của Đảng Cộng sản có làm ‘chết’ cái đất nước này hay sẽ làm chết Đảng?
Một đất nước và một dân tộc đã không bị diệt vong, dù 1000 năm nô lệ Tàu, dù 100 năm đô hộ Tây thì chắc chắn sẽ biết vươn mình đứng dậy, rũ sạch mấy chục năm đảng trị, để phục sinh, tồn tại và tiến hóa, đến vô cùng.
Như đã thế và tất nhiên phải thế. Vì đó là dân tộc Việt.
http://www.bbc.co.uk/vietnamese/forum/2012/02/120227_party_rectifying.shtml
Bạch hóa Hồ Sơ Tối Mật của Mỹ: Biên Bản Buổi Họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Ngày 24/4/75
Hữu Nguyên
April 16, 20150 Bình Luận
LGT (Hữu Nguyên): Trong những ngày cuối tháng Tư 1975, khi cộng sản Bắc Việt ồ ạt tiến chiếm Sài gòn, thì ở Hoa Kỳ, giới lãnh đạo chính phủ, từ tổng thống Ford trở xuống, đều chú tâm vào sự an nguy của những công dân Mỹ, phần đông là nhân sự của DAO (Defense Attaché Office), nhân viên tòa đại sứ và nhân viên các tổ chức phi chính phủ cùng một số binh sĩ TQLC trực gác các cơ sở Hoa Kỳ. Vào thời điểm ấy, ưu tiên hàng đầu của Hoa Kỳ là có đủ thời giờ thu xếp rút hết nhân sự Mỹ ra khỏi Việt Nam. Để thực hiện việc này, chính phủ Ford đã không ngần ngại thương lượng điều đình với Bắc Việt và quan thầy của VC là Nga Sô mà không cho VNCH biết. Theo một số tài liệu tối mật vào thời điểm ấy, được Viện Bảo Tàng của Tổng Thống Ford (Ford Museum) bạch hóa, thì chính phủ Hoa Kỳ đã không ngần ngại xin xỏ Bắc Việt tạm thời ngưng tấn công để Hoa Kỳ có thể rút hết nhân sự một cách êm thắm. Bù lại Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận những điều kiện mà nhà cầm quyền Hà Nội cùng Mạc Tư Khoa đưa ra. Các tài liệu này cũng cho thấy Nga Sô đã trả lời giùm cho đàn em Bắc Việt rằng “phe Việt Nam đồng ý về vấn đề di tản công dân Hoa Kỳ khỏi Nam Việt Nam”. Hơn thế nữa, Nga Sô cũng nhấn mạnh “Việt Nam đã quả quyết rằng họ không có ý định ngăn cản bất cứ hành động quân sự nào nhằm vào việc di tản công dân Hoa Kỳ ra khỏi miền Nam Việt Nam và quả thật thì những điều kiện thuận lợi đã được thiết lập cho một cuộc di tản như thế”. Trong số tài liệu được bạch hóa có biên bản của hai buổi họp Hội đồng An ninh Quốc gia vào hai ngày 24/4/75 và 28/4/75 cùng một số hồ sơ được trình bày trong buổi họp đó. Sau đây là những đoạn chính yếu của tài liệu đã bạch hóa, được đăng trên báo Saigon Times Úc Châu ngày 25.4.2013. Những phần trong ngoặc vuông […] là phần phụ chú của người dịch.
Biên Bản Buổi Họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia Ngày 24/4/75
Hiện diện: Tổng thống Ford, Phó tổng thống Rockefeller, Ngoại trưởng Kissinger, Bộ trưởng quốc phòng Schlesinger, Tham mưu trưởng hội đồng liên quân (Chairman Joint Chiefs of Staff) Tướng George S Brown, Tổng giám đốc CIA William Colby, thứ trưởng ngoại giao Robert Ingersoll, Thứ trưởng quốc phòng William Clements, trung tướng Brent Scowcroft biệt phái phụ tá tổng thống trong hội đồng an ninh quốc gia, nhân viên hội đồng an ninh quốc gia W R Smyser. Ngày & Giờ: Thứ Năm 24/4/1975. 4g35 chiều. Địa Điểm: Phòng nội các chính phủ, Bạch Ốc. Đề Tài: Di tản khỏi Việt Nam.
TT Ford: Như qúy vị đã biết, trước khi chúng ta bắt đầu di tản khỏi Nam vang, chúng ta đã có một buổi họp. Lúc đó, tôi muốn biết được kế hoạch của chúng ta như thế nào. Và cuộc di tản đã diễn ra kịp thời và trong hoàn cảnh tốt đẹp nhất. Tôi liên lạc mỗi ngày với Henry (Kissinger) và Brent (tướng Scowcroft) về tình hình ở Việt Nam. Tôi biết quốc hội hiện đang tạo áp lực với chúng ta về vấn đề này. Tôi nghĩ rằng việc quan trọng nhất vẫn là tiếp tục hiện diện tại đấy nếu chúng ta còn tiếp tục đóng góp được cho một giải pháp ôn hòa, và chỉ di tản bằng một cách nào đó để không tạo sự hốt hoảng [cho người bản xứ]. Tôi biết hiện nay chúng ta đã giảm thiểu con số [công dân Hoa Kỳ] từ 6000 xuống còn khoảng 1600 thôi.
Schlesinger: Thưa tổng thống, hiện đã tăng lên 1700.
TT Ford: Tôi đã ra lệnh giảm xuống để tới thứ Sáu [tức ngày 25/4/1975] chỉ còn 1090 mà thôi.
Schlesinger: Như thế là giảm quá nhiều trong một ngày.
TT Ford: Đó là lệnh của tôi. Tôi sẽ ban hành thêm một lệnh nữa là đến ngày Chủ Nhật thì tất cả những nhân viên không trọng yếu, và phi chính phủ phải rời khỏi VN. Nhóm còn lại sẽ ở đấy cho đến khi có lệnh rút hết. Chúng ta vừa nhận được sự trả lời từ Nga Sô về một lời yêu cầu của chúng ta. Henry, anh tóm tắt sơ qua sự kiện này cũng như câu trả lời đi.
Kissinger: Theo sự yêu cầu của tổng thống, tôi đã liên lạc với Dobrynin [Anatoly Dobrynin – Đại sứ Nga tại Hoa Kỳ từ 1962 đến 1986] hôm thứ Bảy để yêu cầu họ giúp đỡ hầu cho phép chúng ta tổ chức một cuộc di tản an toàn cũng như bắt đầu cuộc thương thuyết chính trị. Đồng thời tôi cũng yêu cầu họ tạo điều kiện cho cuộc thương thuyết này có thể diễn ra. Chúng ta cũng nhấn mạnh với ông ta rằng chúng ta sẽ coi vấn đề trở nên nghiêm trọng nếu phi trường Tân Sơn Nhất bị tấn công. Và chúng ta đã nhận được hồi âm. Theo tinh thần của hồi âm này thì nếu chúng ta tiếp tục tiến hành cuộc đối thoại chúng ta sẽ được bảo đảm là VC không có một hành động quân sự nào xảy ra trong lúc chúng ta di tản người của chúng ta. Về mặt chính trị thì cuộc sắp xếp giữa 3 phe [Hoa Kỳ, Nga Sô và Bắc Việt] cho chúng ta một hy vọng rằng sẽ có một giải pháp là chính phủ liên hiệp, tốt hơn việc đầu hàng vô điều kiện. Chúng ta sẽ liên lạc lại với Nga Sô để xem họ muốn nói gì khi họ nhắc đến việc thực thi Hiệp Định Ba lê và đồng thời để cho họ biết rằng chúng ta sẽ hợp tác trong vấn đề ấy. Chúng ta nói rằng chúng ta sẽ không có hành động hấp tấp nào và tin rằng VC cũng sẽ không có hành động hấp tấp tương tự.
TT Ford: Theo sự nhận định của tôi thì tình hình lắng dịu hiện nay là kết quả của việc này. Qúy vị có thể cho rằng họ chưa chuẩn bị xong, và sẽ có hành động một khi họ đã sẵn sàng. Điều này cho thấy có lẽ họ chấp nhận một sự thỏa thuận trong khuôn khổ Hiệp Định Ba Lê và chúng ta có thể giữ người của chúng ta ở đó và tiếp tục giảm thiểu con số cho đến khi nào chúng ta quyết định rút hết. Chúng ta đã phải trải qua một giai đoạn khó khăn. Đấy là một sự nguy hiểm, và là một canh bạc may rủi, nhưng đó là trách nhiệm của tôi và tôi không muốn làm bất cứ một việc gì có thể phương hại đến tình hình cả. Tôi nghĩ rằng tôi đã có hành động đúng đắn, và tôi sẽ tiếp tục hành xử như thế. Điều tiên quyết mà tất cả mọi người đều phải nghĩ đến là con số 1090 người và việc rút hết tất cả những người không phải là công chức chính phủ hoặc ở những chức vụ không trọng yếu. Đấy là những người Hoa Kỳ, chứ không phải là những quyến thuộc người Việt Nam [Vietnamese dependents]. Tôi cho rằng con số này [những quyến thuộc người Việt] mỗi ngày một gia tăng, với tỷ số là 4:1 [4 người Việt cho 1 người Mỹ].
Tướng Brown: Trong vài ngày qua đã tăng lên 15:1.
Kissinger: Tổng thống yêu cầu Nga Sô về việc di tản công dân Hoa Kỳ cùng người miền Nam Việt Nam nhưng họ chỉ trả lời về việc di tản công dân Hoa Kỳ thôi. Và tôi nghĩ, đến thời điểm phải xài chiến đấu cơ yểm trợ thì chúng ta nên rút phứt ra cho rồi. Vì khi địch thấy có phi cơ yểm trợ thì có lẽ cũng giúp được cho tình hình.
TT Ford: Nếu chúng ta có chiến đấu cơ yểm trợ mà không dùng nó, địch vẫn có đủ ra-đa để biết được sự hiện diện của chúng ta.
Tướng Brown: Tụi pháo binh không thấy đâu. Và tụi hoả tiễn SA-7 cũng thế. Tôi nghĩ rằng chúng ta không nên sử dụng chiến đấu cơ yểm trợ cho đến khi chúng ta đã sẵn sàng để nổ súng. Nguy hiểm ở đây là các chiến đấu cơ này chỉ nên được sử dụng cho một công tác hẳn hoi chứ không phải chỉ để ló dạng trên màn ảnh ra-đa thôi.
Schlesinger: Có thể hiện nay địch chỉ bắn lai rai để làm mình bực mình thôi (shooting to bloody us). Nếu thấy có chiến đấu cơ có thể địch sẽ pháo kích mạnh hơn nữa.
Kissinger: Dĩ nhiên là nó có thể có ảnh hưởng ngược lại. Ngay cả nếu một vài đơn vị địa phương của địch không thấy được chiến đấu cơ của ta trên ra-đa, chắc chắn là tư lệnh tối cao ở Hà nội sẽ nhanh chóng biết được chuyện ấy. Tôi không nghĩ rằng địch sẽ gia tăng tấn công.
Schlesinger: Chúng có thể đã có lệnh trước để tấn công chúng ta.
Tướng Brown: Tôi nghĩ chúng đã quyết định tấn công tới cùng rồi. Còn nhiều đạo quân theo sau mà chúng ta đề cập đến hồi nãy. Chúng đi ngang qua những khu vực mà chúng từng xuyên qua trong kỳ Tết Mậu Thân. Chúng đã sẵn sàng cho một cuộc đại chiến ở Tân Sơn Nhất.
TT Ford: Nếu chúng ta quyết định dùng chiến đấu cơ yểm trợ, chúng ta phải di tản cả Sai gòn chứ không phải chỉ riêng Tân sơn Nhất thôi. Còn bao lâu nữa chúng ta mới có thể biết được rằng mấy chiếc C-130 có đáp xuống được hay không?
Tướng Brown: Trong vòng một giờ đồng hồ. Chúng ta có đường dây liên lạc thường trực và trực tiếp với Graham Martin.
Kissinger: Tôi nghĩ rằng chúng ta có 3 quyết định: Thứ nhất, tiếp tục chiến dịch bao lâu và mấy chiếc C-130 chỉ nên chở người Hoa kỳ ra thôi hay chở luôn cả người Việt nữa. Trong bất cứ trường hợp nào, hôm nay là ngày cuối cùng để sử dụng phi cơ không vận. Thứ nhì, có muốn chiến đấu cơ bay vòng vòng Tân sơn Nhất hoặc bất cứ nơi nào mà ta rước người di tản hay không. Thứ ba, khi nào thì chúng ta cho lệnh bắn áp đảo để tháo chạy. Trong vấn đề này, tôi đồng ý với Jim (Schlesinger) rằng giải pháp này chỉ nên được sử dụng khi rút người Hoa kỳ ra mà thôi. Việc mà tôi lo ngại là việc cân nhắc giữa nguy cơ của việc chơi xả láng (pull out all stops) nếu địch chưa quyết định làm như thế. Tôi nghĩ rằng một khi chúng thấy chiến đấu cơ yểm trợ thì sẽ có một ảnh hưởng tốt.
Schlesinger: Tôi nghĩ rằng chúng ta không cần tập trung nhiều hỏa lực vào khu vực đó.
Clements: Nếu tổng thống quyết định rằng đây là ngày cuối cùng để kéo hết nhân viên dân sự ra thì chúng ta có thể tiến hành trên căn bản ấy.
TT Ford: Tôi nghĩ thế. Hôm nay là ngày cuối để di tản những người Việt Nam.
Kissinger: Như thế thì DAO sẽ cùng rút ra với họ.
Tướng Brown: Về chuyện mà chiến đấu cơ của chúng ta có nguy cơ bị phát hiện thì chúng ta đã đưa một chiếc phi cơ CAP của hải quân bay lên cao hơn mấy chiếc chiến đấu cơ và tướng Gayler đã ra lệnh cho họ phá sóng của các máy ra đa của những hỏa tiễn SA-2.
TT Ford: Không phá sóng đánh lạc hướng mấy hỏa tiễn SA-7 sao?
Tướng Brown: Thưa không. Nó là hỏa tiễn tầm nhiệt.
Tướng Scowcroft: Chúng ta vừa nhận được báo cáo rằng phi trường vẫn tiếp tục bị pháo kích. Hai trung đội Bắc Việt vẫn còn ở nghĩa địa gần Tân Sơn Nhất. Chiếc C-119 bị bắn rớt ở phi trường và chiếc phi cơ kia bị rớt ở nơi khác. Chúng ta cũng được tin rằng những chiếc C-130 vẫn trực chỉ phi trường nhưng sẽ không đáp xuống.
Schlesinger: Tụi Bắc việt có 4,000 du kích bắn sẻ ở Sài gòn. Chúng sẽ tấn công tòa đại sứ nếu chúng ta dùng hỏa lực tấn công.
Kissinger: Tôi nghĩ rằng chúng ta chỉ khai hỏa sau khi rút toàn bộ tòa đại sứ. Có thể chúng ta nên nghĩ đến việc chừa lại một nhóm cốt lõi tình nguyện nhưng tôi sẽ rút tất cả những người khác ra. Tụi Bắc Việt dường như có ý định hạ nhục chúng ta và việc để người lại có vẻ là một việc không sáng suốt.
TT Ford: Tôi đồng ý. Tất cả mọi người phải rời đi. Bây giờ chúng ta đã đi đến hai quyết định: Thứ nhất hôm nay là ngày cuối cùng di tản người Việt. Thứ nhì, nếu chúng ta khai hỏa, người của chúng ta phải rút hết. Chúng ta có sẵn sàng dùng trực thăng không vận chưa?
Tướng Brown: Thưa có. Nếu tổng thống hoặc đại sứ Martin cho lệnh chúng ta có thể mang trực thăng đến trong vòng một giờ đồng hồ.
Kissinger: Như vậy thì lệnh của tổng thống là nhân viên Việt Nam nên đi ngày hôm nay và DAO cùng phần lớn nhân viên tòa đại sứ cũng nên được di tản bằng phi cơ.
TT Ford: Tôi nghĩ rằng nên từ từ từng giai đoạn.
Kissinger: Một số nhân viên nhỏ cần được để lại ở tòa đại sứ. Nếu phải bắn áp đảo để tháo chạy thì chúng ta sẽ chuyển sang kế hoạch di tản toàn bộ người Hoa Kỳ. Nếu chúng ta phải rút ra, thì ưu tiên sẽ được dành cho công dân Hoa Kỳ.
Schlesinger: Chúng ta nên rút người của tòa đại sứ ra trong ngày hôm nay luôn.
Kissinger: Đúng. Chúng ta không nên để lộ ra ngoài rằng hôm nay là ngày cuối cùng di tản dân sự.
PTT Rockefeller: Báo chí có biết về cái chết của hai binh sĩ TQLC không?
Schlesinger: Có. Chúng ta sẽ xem dư luận có phản ứng như thế nào.
Tướng Brown: Ông ngoại trưởng có nói nếu chúng ta chấm dứt cuộc không vận thì công dân Hoa Kỳ phải được ưu tiên. Nhưng chúng ta không thể nào biết được chuyện này. Chúng ta sẽ không biết được chuyến bay nào sẽ là chuyến chót.
Schlesinger: Chúng ta nên để họ ưu tiên một cách kín đáo.
TT Ford: Chúng ta phải để cho tướng Smith lần lượt đưa họ vào cuộc di tản.
Kissinger: Nếu công dân Hoa kỳ leo lên chiếc phi cơ đầu tiên thì tình hình có thể trở nên hỗn loạn, khó kiểm soát. Chúng ta phải dãn họ ra. Những người phải ở lại cho đến phút cuối cùng là toán điều hành việc di tản người Việt Nam. Còn tất cả những người khác thì nên ra đi.
TT Ford: Chúng ta phải trộn họ cho đều vào. Chúng ta không muốn có quá nhiều người ở lại lúc cuối.
Tướng Brown: Tôi không muốn thấy công dân Hoa Kỳ phải đứng chờ đợi chuyến bay chót.
Schlesinger: Henry à, có một điều mà chúng ta cần phải suy nghĩ. Đến cuối ngày, khi biết được đây là ngày cuối thì chuyện này có tạo khủng hoảng và có ảnh hưởng đến tòa đại sứ của chúng ta không?
Kissinger: Tôi tin rằng một khi chính phủ mới được thành lập thì bổn phận của chúng ta chấm dứt. Ngay cả trong trường hợp không có pháo kích, vẫn có nguy cơ chính phủ Dương Văn Minh chuyển từ thân Hoa Kỳ thành trung dung rồi thành một chính phủ bài Mỹ. Chuyện ấy có thể xảy ra trong tuần này. Để trả lời câu hỏi của ông, đúng, nó có thể tạo khủng hoảng. Nó cũng có thể khiến chính phủ (Minh) quay sang tấn công chúng ta. Với 150 người sẽ dễ dàng thi hành việc di tản hơn.
TT Ford: Họ chỉ cách xa có một giờ thôi. Ngay cả như tình hình trở nên tồi tệ trong ngày hôm nay, nhanh hơn sự suy tính của chúng ta, chúng ta vẫn có thể thoát đi được.
Tướng Brown: Từ hàng không mẫu hạm đến tòa đại sứ chỉ có 25 phút thôi. Chúng ta có thể khởi hành bất cứ khi nào tổng thống hoặc đại sứ Martin ra lệnh.
Schlesinger: Còn nguy cơ bị tấn công ban đêm.
Kissinger: Tôi tin rằng trong một cuộc tấn công có kỷ luật thì tòa đại sứ vẫn an toàn hơn DAO. Tôi nghĩ rằng, ngày mai tổng thống sẽ cần phải quyết định xem tổng thống có muốn tòa đại sứ rút vào đêm mai hay không. Tổng thống có thể giảm thiểu sự hoảng loạn nếu tổng thống không mang cả tòa đại sứ đến Tân Sơn Nhất. Vì thế, có lẽ phải cần di tản ngay trong khuôn viên tòa đại sứ. Tôi nghĩ rằng chúng ta nên rút hết tất cả mọi người ra đêm nay, rồi ngày mai sẽ quyết định về tòa đại sứ.
TT Ford: Nếu mấy chiếc C-130 không đáp xuống được thì sao? Và như thế chúng ta sẽ không mang người ra bằng phi cơ được.
Kissinger: Khi đó tổng thống có thể tổ chức không vận cấp cứu ở khuôn viên của DAO và tòa đại sứ, và lúc ấy tổng thống sẽ không còn chọn lựa nào khác ngoài việc di tản hết mọi người đi. Và khi ấy, có lẽ tổng thống cũng phải ra lệnh bắn áp đảo để triệt thoái.
Schlesinger: Tôi nghĩ rằng chúng ta vẫn nên cố mang mấy chiếc C-130 vào.
Tướng Brown: Chúng ta sẵn sàng để rút người đi từ Tân Sơn Nhất hơn là từ tòa đại sứi bởi vì ở tòa đại sứ chúng ta phải đốn cây và dọn trống bãi đậu xe.
TT Ford: Chúng ta cần phải xem chuyện gì xảy ra ở Tân Sơn Nhất trước. rồi sau đó chúng ta mới phải dùng đến cơ sở của DAO và tòa đại sứ.
Kissinger: Nếu địch tiếp tục tấn công thì có nghĩa là chúng muốn đóng nút chúng ta lại. Khi ấy, chúng ta nên rút tất cả mọi người đi.
TT Ford: Ai sẽ thi hành chuyện này?
Kissinger: Tôi đề nghị là chúng tôi thảo sẵn một thông điệp ngay tại đây, đưa cho Jim (Schlesinger) và George (Brown) xem thử rồi trình lên tổng thống. Sau đó, chúng tôi sẽ gửi cho Graham Martin. Jim cũng có thể gởi cùng thông điệp ấy đến tướng Gayler qua những phương tiện riêng của ông ta. Khi đó, tất cả mọi người đều biết được chuyện chúng ta phải làm.
Clements: Nếu chúng ta không đưa được mấy chiếc C-130 vào thì chúng ta cần phải đưa ra những quyết định tối quan trọng khoảng nửa đêm hay 1g00 sáng.
TT Ford: Quyết định ấy sẽ là rút hết ra hay nhào vô.
Schlesinger: Chúng ta có nên đập cho pháo binh địch mềm ra hay không?
Tướng Brown: Tôi sẽ không thèm để ý đến pháo binh địch trong việc không vận bằng trực thăng nếu chúng chỉ pháo kích vào phi trường. Nhưng nếu chúng nhắm vào DAO hoặc tòa đại sứ thì chúng ta không thể tiến vào được. Trong trường hợp đầu, chúng ta hy vọng rằng địch sẽ không thể dời đổi một cách nhanh chóng quá. Trong trường hợp thứ nhì, chúng ta cần bắn áp đảo.
Kissinger: Nhưng đàng nào thì chúng ta cũng cần có chiến đấu cơ yểm trợ để bảo vệ cuộc di tản rồi.
TT Ford: Các chiến đấu cơ hiện giờ ở đâu?
Tướng Brown: Tôi đề nghị các chiến đấu cơ này sẽ tiến vào khi chúng ta bắt đầu di tản bằng trực thăng.
TT Ford: Chúng ta có thể chờ đợi đến khi chúng ta biết được mấy chiếc C-130 có đáp được hay không. nếu chúng không đáp được, chúng ta sẽ chọn giải pháp thứ 3. Quyết định của chúng ta sẽ tùy thuộc vào việc C-130 có thể hoạt động được [hạ cánh được] hay không. Tất cả đồng ý không? (Mọi người đều gật đầu).
Hữu Nguyên
http://www.vietthuc.org/bach-hoa-ho-so-toi-mat-cua-my-bien-ban-buoi-hop-hoi-dong-an-ninh-quoc-gia-ngay-24475/
CSVN thừa nhận mang 16 tấn vàng VNCH cống nộp cho Liên Xô
.
Như vậy, sau 40 năm, những lời vu cáo về việc cố tổng thống Việt Nam Cộng Hòa Nguyễn Văn Thiệu mang đi 16 tấn vàng đã lộ rõ thủ đoạn bịa đặt bởi hệ thống tuyên truyền cộng sản.
Trong suốt quãng đời lưu vong còn lại, ông Nguyễn Văn Thiệu đã phải mang nỗi oan này cho đến tận ngày nhắm mắt suôi tay.
Trên thực tế, cho đến tận ngày 30/4/1975, 16 tấn vàng vẫn được lưu giữ trong Ngân hàng Quốc gia Việt Nam. Số vàng này sau đó bị đảng cộng sản Việt Nam ‘tiếp quản’.
Dù biết rõ điều này, nhưng trong sách ‘Đại thắng mùa xuân’ được xuất bản 1 năm sau đó, 1976, chính tổng tham mưu trưởng quân đội cộng sản Bắc Việt là đại đướng Văn Tiến Dũng vẫn lập lại lời vu cáo này:
“Cho đến ngày 26 tháng 4, khi Thiệu và gia đình hắn đem 16 tấn vàng bạc, đô la, của cải vội vã chạy sang Đài Loan…”.
Rõ ràng, chóp bu cộng sản biết rõ sự thật về 16 tấn vàng của VNCH, nhưng vẫn cố tình bịa đặt để vu oan cho tổng thống Nguyễn Văn Thiệu.
Sau 40 năm, sự thật bắt đầu được sáng tỏ. Theo báo Tuổi Trẻ, trả lời câu hỏi 16 tấn vàng VNCH được sử dụng ra sao, cựu thống Ngân hàng nhà nước Lữu Minh Châu nói:
“Nó đã được bán ra quốc tế trong tổng số hơn 40 tấn vàng để giải quyết những vấn đề khó khăn cấp bách của quốc gia, trong đó có miếng ăn của người dân”.
Cụ thể, từ năm 1979, 40 tấn vàng đã được CSVN bí mật chở sang cống nộp cho Liên Xô, trong đó có 16 tấn vàng của VNCH. 24 tấn vàng còn lại là do cộng sản cướp được của nhân dân miền Nam qua các chiến dịch đánh tư sản.
Đổi lại, CSVN được Liên Xô gửi lương thực cứu đói bằng bo bo – một một món ăn kinh hãi đối với người dân miền Nam sau ngày ‘giải phóng’.
Cuối cùng, sự thật về câu chuyện 16 tấn vàng đã được trả lại, cố thổng thống Nguyễn Văn Thiệu cũng đã được minh oan. Câu chuyện này cũng là một lời nhắc nhở chúng ta phải luôn cảnh giác với sự tuyên truyền, lừa bịp của cộng sản.
Càng tìm hiểu kỹ lại lịch sử, chúng ta lại càng thấm thía câu nói của tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm!”.
DI TẢN VÀ VƯỢT BIÊN
KÝ ỨC VỀ NGƯỜI VIỆT TỴ NẠN CỘNG SẢN
Bùi Trọng Cường & Nguyễn Phục Hưng
Sau ngày 30-4-1975, một ký giả Tây phương đã viết là ‘Dưới chính sách khắc nghiệt của Cộng sản, nếu cái cột đèn mà biết đi chắc nó cũng…vượt biên’. (Ginetta Sagan). Câu nói dí dỏm của Sagan đã diễn tả được một thực trạng rất bi hài của dân dộc Việt Nam trong khoảng thời gian hơn hai mươi năm kể từ Tháng Tư, 1975 cho đến năm 1996.
Những người chạy trốn chế độ Cộng Sản có thể chia làm hai đợt chính: Đợt đầu được mệnh danh là người Di Tản vì họ rời Việt Nam ngay trong khoảng tháng Tư 1975 và đợt thứ hai thường được mệnh danh là ngưòi Vượt Biên, dù bằng đường bộ hay đường biển.
Di Tản
Ngày 30 tháng 4, 1975 là ngày chính thức ghi nhân sự sụp đổ của Việt Nam Cộng Hoà trước làn sóng xâm lăng của cộng quân. Cuối tháng 4,1975 đã có những đợt rời Việt Nam của các nhân viên và gia đình các sứ quán, công ty ngoại quốc cũng như nhừng người Việt có phương tiện riêng hoặc được các cơ quan Hoa Kỳ và các nước đồng minh bảo trợ. Ngày 29 tháng tư 1975, Tổng Thống Hoa Kỳ Gerald Ford chính thức ra lịnh khỏi động chiến dịch “Frequent Wind” để di tản quân nhân, nhân viên dân sự Mỹ và một số người Việt đã từng cộng tác hay liên hê với chính phủ Mỹ và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa rời khỏi Việt Nam để tránh bị Cộng Sản trả thù.
Cùng thời điểm này, rất nhiều người Việt Nam cũng đã quyêt đinh di tản. Họ là những người mà đã ít nhất một lần bỏ nơi chôn nhau cắt rốn, bỏ mồ mả ông bà, tổ tiên để di cư vào Nam năm 1954, họ là những người đã có ít nhiều hiểu biết, kinh nghiệm về cộng sản, họ là những người đã may mắn vượt thoát được sau cuộc triệt thoái của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa khỏi miền Cao nguyên và miền Trung, họ là những người chối bỏ chế độ cộng sản. Ðó là lý do mà làn sóng người di tản trong tháng Tư 1975 đã làm nhiều người ngạc nhiên với con số khoảng 300 ngàn người và các cơ quan cứu trợ quốc tế đã phải mất nhiều thời gian để giúp họ định cư ở các nước tự do nhất là Mỹ, Canada, Úc, Tân Tây Lan và các trai tạm cư ở Subic Bay (Philippines), Guam, Wake Island, California, Arkansas, Florida, Pensylvania ãa phải mở mãi cho đến cuối năm 1975.
Chiến dịch ‘Frequent Wind” trên nguyên tắc chỉ kéo dài từ 3:30 chiều ngày 29 tháng tư và chấm dứt vào đúng 21 giờ ngày 30 tháng tư, 1975 khi người lính Mỹ cuối cùng được trục thăng bốc khỏi Sàigòn và trụ sở của cơ quan DAO (Defence Attachés Offfice) của Hoa Kỳ được Thủy quân lục Chiến Hoa kỳ cho phá nổ. Tuy nhiên với làn sóng người di tản rầm rộ đổ ra biển Thái Bình Dương bằng các tàu hải quân, thương thuyền và cả các tàu đánh cá nhỏ, việc cứư vớt người vẫn được tiếp tục trong nhiều tuần sau đó. Hạm đội số 7 của Hải quân Hoa Kỳ với các hàng không mẫu hạm Hancok , Midway và nhiều tàu chiến hạm cũng như nhiều thương thuyền Hoa kỳ và quôc tế đã tham dự vào chiến dịch cứu vớt người trên biển rồi chuyển qua các trai ty nạn ở Subic, Guam trước khi phân tán họ đi tị nạn tai Hoa kỳ và các nước tự do khác như Canada, Uc, Pháp, Anh, vân vân. Trên thực tế, giai đoan di tản và vượt biên không có sư gián đoạn. Có chăng chỉ là sự phân chia thời điểm chính phủ Hoa Kỳ chấm dứt chiến dịch vớt người trên biển mà thôi, còn sự ra đi của người Việt vần tiếp tục không ngừng.
Những hình ảnh sau đây ghi nhận cảnh hãi hùng của một cuộc di tản chưa từng có trong lich sử Việt Nam và thế giới.
Đoàn người Di tản từ miền Trung
http://photo.tcworks.net/slideshow.php?set_albumName=album392
Helicopter Evacuation From the American Embassy
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
Dân Di Tản Chạy ra Tr ực Thăng tại Trụ sở DAO, Saigon
http://www.midwaysailor.com/midwayfreqwind/spectrum75
Dân Di Tản đến Midway bằng trực thăng Hoa Kỳ
http://www.midwaysailor.com/midwayfreqwind/spectrum75
Một máy bay VNCH chở người di tản đáp xuống Midway
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
Một Thuyền Đánh Cá chở người Di Tản được Midway tiếp cứu
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
Cuộc Di Tản tháng tư năm 1975 đã có nhiều cảnh đẫm máu và nước mắt nhưng tình nhân loai cũng đã được biểu lộ rõ rệt từ những quân nhân và các cơ quan từ thiện. Sau khi đã đến đựợc Mỹ hay các nước mở vòng tay đón nhân, dân Di Tản còn phải trải qua nhiều khó khăn như sự khác biệt ngôn ngữ, văn hóa, vân vân để tạo lại cuộc sống.
Vượt Biên
Họ ra đi mà không biết mình đi đâu, sẽ đến đâu; đa số không biết gì về đại dương cùng những nguy hiểm của những chuyến hải hành cũng như không biết gì về những khó khăn khác đang chờ đợi họ. Ðó là lý do mà có lúc người ta đã nói “ nếu có ba người vượt biên thì chỉ có một người đến bến an toàn, một người chết trên biển vì bảo tố, đói khát và hải tặc và một người sẽ bị bắt lại và đi tù”.
The State of the World’s Refugees 2000:
50 Years of Humanitarian Action
Những Người Vượt Biên là ai và tai sao họ phải liều mình đi tìm Tự Do?
Họ chính là những người chậm chân trong giai đoạn Di Tản. Có thể lúc đó họ còn chút hy vọng là những người Cộng sản cũng còn chút lương tâm và sáng suốt không nỡ đối xử với những người dân miền Nam như kẻ thù không đội trời chung và họ sẵn sàng cộng tác với những người Cộng sản để cùng xây dựng một Đât nước Thông Nhất trong Hòa Bình. Họ đã lầm sau bao nhiêu ngày lầm than tôi mọi cho những người Cộng Sản vô lương. Họ đã mất hết tài sản, tự do và cả phẩm giá con người dưới chánh sách trả thù tàn bạo của Cọng sản. Họ có thể chịu nghèo khổ để hy vọng vào một tương lai xán lạn. Nhưng tương lai chỉ có tù đầy, thù hận và dối trá. Thế hệ của họ coi như bỏ vì họ đã lỡ tin Cộng Sản. Nhưng còn thế hệ con cái họ? Họ không thể chịu cực khổ nhìn con cái họ trở thành những con vật trong xã hội Cộng sản Xã hội Việt Nam đã lùi lại hơn 30 năm sau cái ngày gọi là ‘giải phóng’. Tương lai họ còn gì đâu ngoài một lối đi duy nhất: Vượt Biên. Nếu may ra thoát được qua bờ Tự Do thì con cái họ còn có hy vọng sống được một cuộc đời đáng sống. Còn không, đời sống ở Việtnam có khác gì đã chết. Bới vậy Họ đã quyết chí liều mình Vượt Biên qua Cam-pu-chia, đến Thái Lan hay Vượt Biển qua Mã Lai, Nam Dưong, Phi Luật Tân nơi nào cũng được, miễn là ra khỏi điạ ngục Việt Nam bất chấp sự bắt bớ lùng xét của công an, hiểm nguy của hải tặc, bão tố hãi hùng ngoài biển Đông.
Sau đây là vài trích đoạn từ các tác phẩm viết về tỵ nạn:
“Người Việt Nam chỉ ra đi trong thế cùng, không còn cách nào có thể sinh sống tại quê hương của mình. Ðây là một cuộc bỏ phiếu vĩ đại chống lại chế độ cộng sản Hà Nội bằng chính mạng sống của mình. Trong số nầy, rất nhiều người mang hoài bảo sẽ có một ngày trở về quang phục quê hương. Số người tử nạn trên bước đường vượt biên không thể thống kê chính xác được. Người ta phỏng chừng từ 400.000 đến 500.000 thuyền nhân bỏ mình trên biển cả hay bị hải tặc bắt giết.
Vượt biên năm 1975 là cuộc xuất ngoại vĩ đại nhất trong lịch sử Việt Nam kể từ ngày lập quốc. Ðây là một sự kiện hoàn toàn bất ngờ đối với Nam Việt, Bắc Việt, Hoa Kỳ và cả thế giới. Trước đó, không một ai có thể tiên đoán được phong trào vượt biên sẽ xảy ra đến mức lớn lao như thế. Phong trào vượt biên kéo dài từ 1975 đến 1996 ngang bằng với thời gian chiến tranh từ 1954 đến 1975. Tổng số người rời bỏ đất nước bằng tất cả các cách, cộng với những người tử nạn trên đường vượt biên, lên đến khoảng gần bằng tổng số dân chúng và quân nhân Việt Nam cả Nam lẫn Bắc tử trận trong cuộc chiến từ 1954 đến 1975 (khoảng 3,000,000).
Những Thuyền Nhân nằm la liệt trong khoang tàu
http://photo.tcworks.net/slideshow.php?set_albumName=album392
Những đợt vượt biên ào ạt, bất chấp mạng sống đã làm rúng động lương tâm nhân loại, và đã phơi trần bản chất độc ác của chế độ Cộng Sản Việt Nam (CSVN) trước công luận thế giới. Sự kiện nầy là tiếng chuông cảnh tỉnh đối với nhân loại về “Thiên Đường Cộng Sản” và trở thành động cơ thúc đẩy các nước Ðông Âu ly khai chủ nghĩa cộng sản, và dẫn đến sự sụp đổ của khối cộng sản năm 1990-1991?
Phỏng theoTrần Gia Phụng
‘‘Bước vào đầu thế kỷ 21, Việt Nam vẫn là một trong các nước chậm tiến trên thế giới, mặc dầu có sẵn tiềm năng, nhưng vì sai lầm nghiêm trọng của đường lối Xã Hội Chủ Nghĩa. Những thảm trạng xẩy ra trong hơn nửa thế kỷ vừa qua cần phải được ghi nhớ, trong đó có hai sự kiện gần nhất là việc nhà cầm quyền cộng sản giam cầm công dân vô tội trong tù cải tạo và việc người dân trốn ra ngoại quốc trong những điều kiện bất trắc đầy nguy hiểm. Giam giữ người vô tội trong các trại tập trung cải tạo, chế độ cộng sản đã một mặt vi phạm tội ác, một mặt phung phí năng lực quốc gia để phục vụ mục tiêu đảng phái. Đảng Cộng Sản không chịu thú nhận rằng chính tàn bạo của họ là nguyên nhân khiến người dân phải bỏ nước ra đi, mà họ còn lợi dụng cơ hội ra đi đó để cướp đoạt tài sản, thu vàng bán bãi, mặc cho tài năng quốc gia thất thoát ra ngoài và biết bao người dân lương thiện đã bị chết kinh hoàng trên biển cả.
Phạm Hữu Trác – Vàng Máu và Nước Mắt
Trong 2 năm qua, nhất là từ tháng 9 năm 1978, làn sóng người tị nạn từ nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang tràn ngập các trại tị nạn ở Ðông Nam Á. Ngoài ra, hàng trăm ngàn người Việt Nam đã bị chính quyền Hà Nội bắt buộc ra đi trên những con tàu không thể đi biển được, và đã biến mất trên Biển Ðông đầy bất trắc. Ở một số bờ biển Thái Lan, các ngư dân đã phải quay tàu về đất liền khi chứng kiến cảnh hãi hùng như một phần thi thể của người vượt biển vướng vào lưới, vân vân.
Thuyền Nhân trên đường vượt biển
http://photo.tcworks.net/slideshow.php?set_albumName=album392
Vì sao quá nhiều người liều mạng bỏ trốn khỏi Việt Nam? Ta có thể tìm thấy câu trả lời khá dễ dàng trong các chính sách hậu chiến đã được công khai thực hiện: “tiêu diệt các thế lực thù nghịch: trừng trị những kẻ bù nhìn, đánh bại giới tư bản, đánh đuổi người Trung Hoa.”
Hiện tượng thuyền nhân đã phản ảnh được cái đau khổ của người phải rời bỏ quê hương. Họ không phải chỉ kín đáo đi từ bên này sang bên kia biên giới, chờ đợi cơ hội quay về khi mọi chuyện đã trở lại bình thường hay theo ý họ mong muốn. Họ ra đi, không hề biết trước mình sẽ đến đâu, không có viễn ảnh hồi hương, và cam chịu mọi hiểm nguy. Họ phải đang tâm cắt bỏ những ràng buộc với quê hương và dân tộc.
Vietnamese refugees http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-08.html
Thuyền nhân là những người không chịu đựng được chính sách hà khắc của chính quyền cộng sản Họ là những người mà trước năm 1975, không bao giờ muốn rời bỏ quê hương. Trớ trêu thay, lịch sử đã đảo lộn, đã thay đổi cuộc đời ho vượt xa sức họ tưởng tượng, đến mức họ phải quyết định bỏ lại sau lưng tất cả những người và những gì yêu quý, liều mạng sống của mình cũng như chấp nhận mọi nỗi kinh hoàng của một tương lai bất định, để rời khỏi Việt Nam.
Lesleyanne Hawthorne – Refugee – The Vietnamese Experience
Những ‘thuyền nhân’, danh từ thế giới gán cho họ, thường phải chịu nhiều rủi ro lớn lao, từ rất lâu trước khi đặt được chân xuống tàu. Trong khi cố gắng tìm cách để thoát được công an và lính biên phòng, họ đã chấp nhận rủi ro bị bắn, hoặc nhẹ nhất là, bị bắt lại và bỏ tù. Những ai may mắn xuống được tàu phải ra đi trên các thuyền đánh cá mỏng manh đầy ắp người không thích hợp để đi vượt đại dương. Thường thường, họ nhắm hướng đi đến Thái Lan hoặc Mã Lai, nhưng lại cập bến ở đâu đó giữa Hồng Kông và Úc Ðại Lợi. Biển cả cũng cướp đi một số người mà không ai biết được là bao nhiêu.
Thuyền chở 162 người vượt biển bị đắm lúc sắp đáp được vào
http://www.cic.gc.ca/english/department/legacy/chap-6a.html
Tuy vậy, cuối cùng thì câu chuyện về những người tị nạn Ðông Dương là câu chuyện về những người bị từ chối. Trước tiên và đau đớn nhất, họ bị chính quyền của chính nước họ khước từ. Họ cũng nhiều lần bị cự tuyệt bởi các quốc gia lân bang nơi họ đến xin tạm trú, và bị từ chối ít nhất là vào lúc đầu bởi các nước Tây Phương và Nhật Bản, những quốc gia duy nhất có khả năng và tấm lòng cứu vớt thuyền nhân.
Barry Wain – The refused: The Agony of The Indochina Refugees
“Chúng tôi cần gạo và thực phẩm. Trong những ngày này, chúng tôi không có tiền để mua thêm thức ăn. Chúng tôi không được phép có công việc làm. Nếu thực phẩm được phát trễ, chúng tôi chỉ việc nhịn đói. Chúng tôi có rất ít nước uống, vì đang là mùa khô. Tôi nghĩ nếu mọi chuyện không thay đổi, chúng tôi sẽ chết hết.”
Refugee: Thailand, 1978
“Trong bệnh viện, một người đàn ông và đứa con trai đang khóc trên lán. Tàu họ đã đến đêm hôm trước, nhưng bị lật úp. Người vợ, người mẹ đã chết đuối.”
Delegates of ‘Society of Friends’: Malaysia, 1979
“Các lính tuần tra phát hiện có những bao ni-lông xoáy tròn trên mặt nước. Họ chuẩn bị tăng tốc độ vọt đi tiếp, thì khám phá ra rằng, các bao nhựa này đã được thổi phồng, căng lên, để chở hai em bé sơ sinh, dĩ nhiên là chưa biết bơi. Người mẹ đang ra sức đẩy chúng. Người cha đã không may chết đuối trước đó.”
Report: Mekong River Crossing, 1978
Người mẹ của một em trai 14 tuổi kể lại, tàu của cô bị hải tặc từ một tàu cào của Thái Lan nhảy sang. “Tôi biết bọn chúng sẽ làm gì”, cô vừa kể vừa khóc nức nở. “Tôi van xin chúng đừng làm gì trước mặt con trai tôi. Vì thế, chúng đưa tôi vào cabin tàu, rồi 7 tên cưỡng hiếp tôi trong đó.”
Refugee: Malaysia, 1979
Anh Huỳnh Văn Trân, 34 tuổi, ngồi trên 1 băng ghế gỗ ở trại tị nạn Songkhla ở 1 bờ biển cực nam của Thái Lan, thuật lại câu chuyện của mình lần thứ ba.
Anh ra đi trên một chiếc tàu gồm 62 người đàn ông, phụ nữ và trẻ em. Họ may mắn gặp thời tiết và gió thuận lợi, và không bị rắc rối gì về máy tàu. Vào ngày thứ 5 trên biển, một chiếc tàu mã lực lớn dài 15 mét đến cặp sát mạn tàu anh. Có 12 người đàn ông trên thuyền, tất cả đều trang bị vũ khí đầy đủ. Trước hết, chúng ra lệnh cho hai người trong số phụ nữ sang tàu chúng. Một trong hai người này là vợ anh Huỳnh Văn Trân. Cô này bị ghì chặt xuống, súng trường kê sát thái dương, và bị ra lệnh không được kêu la. Cô bị chúng cưỡng hiếp. Bọn hải tặc sau đó nhảy qua tàu tị nạn, cướp đi mọi thứ có giá trị, bắn một người đàn ông còn do dự khi chúng cướp. Sau đó chúng tăng tốc độ phóng đi với các món của cải chiếm được, nhưng thình lình quay ngoắt lại. Vẫn giữ nguyên tốc độ tối đa, chúng nhắm thẳng vào tàu tị nạn và đâm mạnh. Chiếc tàu hải tặc đã lập đi lập lại hành động này trong khi nhóm người tị nạn đang hốt hoảng ngoi ngóp giữa biển khơi. Bọn cướp biển cố ý lái tàu cán qua vô số chiếc đầu đang nhấp nhô, có lẽ vì không muốn để sót lại nhân chứng nào. Khi vợ anh Trân còn đang chới với trên mặt nước, với đứa con trai mới lên 3 đang níu chặt cổ mẹ, cả hai đã bị tàu cán qua và chết đuối. 10 người trong số họ sống sót, sau đó được vớt lên và đưa tới Songkhla.
Toàn thể thính giả đều nín lặng. Ðó là một câu chuyện thương tâm hơn những chuyện khác, nhưng hẳn nhiên không phải là ngoại lệ, hiếm có. Có rất nhiều tàu tị nạn đã bị hải tặc tấn công nhiều hơn một lần.”
UNHCR: 1979
Bao nhiêu thuyền nhân đã chết ngoài biển khơi? Không ai biết chắc cả. Nhiều người nói với chúng tôi rằng có lẽ 5% các tàu rời Việt Nam đã bị mất tích, nhưng nhiều người lại cho là có đến 70% tàu không hề đến được bờ.
Delegates of ‘Society of Friends’: Pulau Bidong, 1979
Georgina Ashworth The boat people and the road people
Trong vài năm đầu những thuyền tỵ nạn còn được tiếp đón tử tế bởi dân chúng và chính phủ các nước láng giềng nhưng vì làn sóng tỵ nạn ngày càng nhiều nên những niềm nở ban đầu đã bị giảm xuống hoặc tệ hơn đã bị thay bằng thái độ xua đuổi như đã từng xẩy ra ở Thái Lan, Mã Lai. Tầu của người tỵ nạn, khi bị tầu hải quân Mã kéo trở ra hải phận quốc tế có một số đã bị chìm và làm chết oan một số người. Do đó nếu như may mắn không bị bắt lại, thoát được gió bão, không hư máy dọc đường và không gặp hải tặc các thuyền nhân vẫn chưa chắc sẽ đến được các trại tạm cư. Ðó là chưa kể đến những khó khăn về đủ mọi phương tiện từ vệ sinh, y tế, nước uống, thực phẩm…nơi các trại tỵ nạn. Thật ra dùng chữ trại tỵ nạn cho lịch sự vậy thôi chứ vào thời điểm ấy không một quốc gia nào có thể lường được là con số người chạy cộng sản, bỏ nước ra đi sẽ đông đến như vậy. Do đó chẳng có quốc gia nào đã có những sửa soạn để có thể đón tiếp một số lượng người đến quá ào ạt và nhiều đến thế. Trại tỵ nạn đã là những kho xưởng, những trại lính, những chiếc phà cũ, những chiếc phao nổi, những hòn đảo san hô hoặc đảo hoang, nhỏ nằm chơ vơ giữa đại dương. Ðặt được chân trên đất là phải đi tìm cỏ, đốn cây để dựng lều để tạm trú tránh cái nóng ban ngày và cái lạnh ban đêm….Còn nhiều nhiều nữa, kể sao cho hết những cái khổ của kiếp lưu vong. Ðến năm 1988 vì quá mệt mỏi với số người tỵ nạn phải cưu mang trên hơn mười năm, Cao Ủy tỵ nạn và các quốc gia có trại tạm cư đã quyết định áp dụng hệ thống thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị của các thuyền nhân nếu họ đến sau ngày 16-6-1988. Quyết định này cũng đã gây ra khá nhiều thảm cảnh rất đáng thương nhưđược kể lại dưới đây.
Sau đây là vài trích đoạn về những thảm cảnh đầy nước mắt đó.
“0 giờ ngày 16-6-1988 mở đầu một định mệnh khác cho những người Việt Nam vượt biển đến Hồng Kông. Kể từ ngày này họ sẽ bị đối xử như những người nhập cảnh bất hợp pháp và phải chờ chính phủ thanh lọc để xác định tư cách tỵ nạn chính trị, trước khi được cứu xét cho đi định cư ở nước thứ ba. Thời điểm phủ nhận ý nghĩa ban đầu sự ra đi của người vượt biển. Thời điểm đánh đổ mọi luận cứ sắp sẵn về quyền tỵ nạn, về quyền đi tìm chỗ trú, và đồng thời che dấu luôn sự bất lực của con người trước thảm cảnh của đồng loại, sự hấp hối của lương tri trước nỗi khổ của những cuộc khởi hành muộn. Như một tấm màng nhện giăng ra chận bắt những cuộc đời lưu lạc, thời điểm 16-6 dựng nên những trại giam khổng lồ trên khắp thuộc địa Hồng Kông, ghi thêm một thảm cảnh thời đại.”
Lê Ðại Lãng – NƯỚC MẮT TRONG TIM
“Ngày 20/5/1994, Lê Xuân Thọ, 28 tuổi, tự rạch bụng mình và tự thiêu. Sau đó anh đã chết vì phỏng nặng.” Phạm Văn Châu, một cựu quân nhân Việt Nam, tự thiêu ở trại tị nạn Galang, Nam Dương ngày 26/4/1994. Hai ngày thì anh qua đời.
Vietnamese refugees were allowed to come on shore at the Government Dockyard at Canton Road. A number of water taps were installed for them to take a cold shower.
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-20.html
Ngày 12/4/1992, Nguyễn Văn Quang, một hạ sĩ thuộc Tiểu đoàn 1 Không vận của Nam Việt Nam, đã treo cổ tự tử ở trại Galang, Nam Dương, sau khi bị khước từ tư cách tị nạn chính trị, và đơn kháng cáo của anh cũng bị bác. Anh mất đi để lại 1 góa phụ và 3 đứa bé mồ côi cha còn nhỏ dại.
Ngày 30/8/1991, tại trại Galang, Nam Dương: cô Trịnh Kim Hương, 28 tuổi, tự thiêu sau khi bị phủ nhận tư cách tị nạn chính trị.
Hoàng Thị Thu Cúc, 26 tuổi, một trong số vài người sống sót khi vượt biên khỏi Việt Nam. Cha cô là lãnh tụ của một chính đảng chống cộng và đã chết trong ‘trại cải tạo’ của cộng sản. Gia đình cô bị trục xuất khỏi nhà, tới một trại lao động cưỡng bức. Bản thân Cúc cũng bị đuổi khỏi trường vì ‘lý lịch gia đình xấu’. Bất kể những sự kiện trên, cô vẫn bị khước từ quy chế tị nạn. Tháng 12/1992, khi đơn kháng cáo của cô cũng bị bác bỏ, cô đã treo cổ tự tử, để lại bốn anh em trai ở trại Sikiew, Thái Lan.
Vụ tự sát của Lâm Văn Hoàng, 22 tuổi, đã gây nên một cuộc biểu tình phản đối ở trại tị nạn Pulau Bidong, Mã Lai. Anh đã lao mình từ vách đá xuống biển, sau khi bị từ chối tư cách tị nạn chính trị vào tháng giêng năm 1991.
Trần Văn Minh, cựu Trung úy, treo cổ tự tử ngày 10/10/1992. Ông được cấp quy chế tị nạn chính trị, nhưng người con trai Trần Minh Khôi, 18 tuổi, đã bị rớt ‘thanh lọc’. Vì Khôi không có 3.000 đôla Mỹ mà các viên chức duyệt xét đòi hỏi, đơn kháng cáo của anh sau đó cũng bị bác.
Ngày 8/12/1993, Trần Anh Dung từ trần khi lên cơn suyễn, sau khi Cao ủy tị nạn Liên Hiệp Quốc (LHQ) đóng cửa trạm y tế duy nhất trong trại tị nạn.
Tháng 2/1993, Lưu Thị Hồng Hạnh, một em gái 16 tuổi không người thân thích, đã tự thiêu sau khi Cao ủy tị nạn LHQ rút lại quy chế tị nạn của em.
Vietnamese refugees arriving at Hong Kong by junks.
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-27.html
Crowd of refugees
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-18.html
“Chị thương, hôm nay em đã bị từ chối tư cách tị nạn chính trị. Rạng sáng mai, em sẽ treo cổ tự tử để thoát mọi đau khổ. Nhưng lúc nào em cũng sẽ ở bên cạnh chị để che chở cho chị và các cháu”
(Thư tuyệt mệnh của anh Nguyễn Văn Hai, 27 tuổi, viết cho chị, vào buổi tối trước khi tự tử trong Trại cấm Whitehead, Hồng Kông, ngày 16/2/1990.)
“Bản tường trình của luật sư đã khiến tôi phải sống trong lo sợ. Nó đã dần dần đẩy tôi vào chỗ chết.”
(Trịnh Anh Huy, 20 tuổi, tự thiêu ngay trước văn phòng của Cao ủy tị nạn LHQ ở Galang, Nam Dương, ngày 27/8/1992.)
“Tôi chết đi không phải vì tuyệt vọng, mà vì tôi muốn đem lại niềm hy vọng và sự sống cho nhiều người khác.”
(Vài hàng tuyệt mệnh của Nguyễn Ngọc Dung, 25 tuổi. Ngày 3/5/1993, anh đã tự đâm vào tim và chết tức khắc trước văn phòng Cao ủy tị nạn LHQ tại trại Sungei Besi, Mã Lai.)
Living in the Refugee Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
VIETNAMESE BOAT PEOPLE – A CRY TO HUMANITY
Inside the Refugee Camp
http://vietnamese-american.org/tuantran/journey.html
Boat people were waiting for medical checks before transferring to refugee camps
http://www.library.ubc.ca/asian/FinalAsian/Vietnam/V-32.html
Lời Kết
Cuộc Di Tản và Vượt Biên sau ngày 30 tháng tư năm 1975 là một bản án muôn đời đối với chính sách vô nhân đạo của Cộng Sản Việt Nam. Những cảnh tượng đau thương, kinh hoàng mà người Di Tản và Vượt Biên phải gánh chịu thật không bút nào ta hết. Tuy nhiên trong biến cố đầy bất hạnh đó, cũng không thiếu những tấm lòng bao dung, thể hiện rõ tình người, của binh sĩ và dân chúng Hoa Kỳ cũng như các quốc gia trong thế giới tự do, nhất là các nước vùng Đông Nam Á đã bao dung chúng ta tại các trai tị nạn.
Chúng ta mang ơn dân chúng và chính phủ các quốc gia đã cưu mang người Việt tỵ nạn, giúp chỗ tạm cư, cho phép định cư hoặc đã cứu vớt tầu tỵ nạn khi lạc lối, hết lương thực hay máy tầu bị hỏng. Chắc chắn là sự thành công của thế hệ thứ hai trong Cộng Ðồng Người Việt Hải Ngoại, sẽ không bao giờ xảy ra nếu không có sự cưu mang của các quốc gia trong Thế Giới Tự Do vào thời điểm đen tối đó.
Ngày hôm nay, sau hơn 30 năm tỵ nạn, viết lại một phần nhỏ trong những nỗi khổ đau của dân tộc để chúng ta ôn lại và ghi nhớ một sự kiện lịch sử không phải là của riêng Việt Nam, mà là của thế giới, trong đó chính chúng ta vừa là tác nhân, vừa là nhân chứng.
Các em tới Trại Tỵ Nạn . . . và thành công trên quê hương thứ hai
Hơn 30 năm sống lưu vong, lúc nào đa số chúng ta cũng vẫn mong có ngày trở về để góp phần xây dựng lại quê hương lạc hậu, giúp cho dân tộc ta sớm được sống trong không khí Tự Do, Dân Chủ đích thực mà dân ta chưa bao giờ được hưởng.
Ðiều này chỉ có thể xảy ra khi người Việt trong và ngoài nước thật tâm đặt quyền lợi của Tổ Quốc lên trên mọi quyền lợi riêng tư và thoát được sự chi phối của các thế lực chính trị quốc tế.
* * *
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tran Gia Phung – Speech Delivered at Montreal, Canada on April 30, 2002
Nguyễn Văn Canh – Cộng Sản Trên Ðất Việt – Kiến Quốc 2003
Ashworth Georgina – The Boat People and The Road People – Quartemaine House 1979
Phạm Hữu Trác – Hội Quốc Tế Y Sĩ Việt Nam Tự Do – VÀNG MÁU và NƯỚC MẮT: Khảo Sát Về Tù Cải Tạo và Vượt Biên Trong Giới Y Sĩ – 2000
Paul Anthony – Why They Flee Their Homeland – Reader’s Digest December 1979
Grant Bruce – The Boat People: An ‘AGE’ Investigation – Penguin Books 1979
Hawthorne Lesleyanne – Refugee The Vietnamese Experience – Oxford University Press 1982,
Wain Barry – The Refused: The Agony Of The Indochina Refugees – Simon & Schuster 1981
Lê Ðại Lãng – Bút Ký Hồng Kông: NƯỚC MẮT TRONG TIM – 1990, p. I
Support Committee for Refugees from Vietnam – Vietnamese Boat People: A CRY TO HUMANITY – 1994
nguồn