Mục đích của người “Việt Quốc Gia” chiến đấu chống Cộng Sản trong nhiều thập niên qua, là nhằm giải thể “chế độ độc tài toàn trị” do Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, để được thay thế bằng một “chế độ dân chủ pháp trị”. Đây là nguyên nhân đã đưa đến cuộc nội chiến “ý thức hệ” tại Việt Nam, mà đã dẫn đến cuộc chiến khốc liệt giữa người Việt Quốc Gia và cộng sản Việt Nam.
Việc “hòa giải và hòa hợp dân tộc” đã có trước 1975 cho đến nay mà vẫn chưa giải quyết được . Vì nguyên nhân thực tế lâu nay người Cộng Sản Việt Nam chỉ đơn phương kêu gọi người Việt Quốc Gia hãy quên quá khứ, quên hận thù, đừng chống cộng, mà hãy hợp tác toàn diện vô điều kiện với đảng và nhà cầm quyền dưới “chế độ độc tài toàn trị” cộng sản hiện nay, để xây dựng phát triển đất nước . Chính sự mâu thuẫn này tồn tại, cho nên “hòa giải và hòa hợp dân tộc” không thành công và chắc chắn không bao giờ thành công . Đối với người Việt Quốc Gia đã thấy rõ bản chất lừa đảo, dối trá của CSVN nói một đường làm một nẻo . Cho nên không tin tưởng những lời nói của CSVN mà chỉ nhìn hành động họ làm có thành tâm hay không .
Muốn “hòa giải và hòa hợp dân tộc” đưa đến kết quả tốt đẹp, là nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay tự lột xác Cộng Sản để thực hiện tiến trình “dân chủ hóa Việt Nam” . Đây là ước mơ từ lâu nay của người Việt Quốc Gia và người Việt Nam yêu nước chân chính . Có như thế thì người Việt Quốc Gia không còn lý do gì để tiếp tục chống cộng sản . Rồi từ đó, việc hợp tác để xây dựng và phát triển đất nước dưới một “chế độ tự do dân chủ” là quyền tự do lựa chọn của cá nhân cũng như đoàn thể chính trị người Việt quốc Gia, họ tự ý hợp tác . Điều này, Cộng Sản Việt Nam hiện nắm chính quyền tại Việt Nam rất dễ thực hiện được, nếu họ chấp nhật lột xác Cộng Sản .
09.05.2014
Thế nhưng năm nay nếu ở hải ngoại vẫn tổ chức ngày “Quốc hận” như mọi năm, thì trong nước đã có sự khác thường: khác với mọi năm trước đây, đã không tổ chức rầm rộ, dưới nhiều hình thức để ăn mừng 30-4-1975 trên cả nước, đồng thời lại làm ngơ cho các cuộc tụ tập đông người, nơi thì tổ chức lễ tưởng niệm các tướng lãnh VNCH đã tuẫn tiết trước hay trong ngày 30-4-1975; nơi khác thì tổ chức vinh danh những thương phế bình VNCH qui tụ hàng trăm người. Đặc biệt nhất là đã không đàn áp dân oan biểu tình trước Lãnh sự quán Hoa Kỳ ở Sài Gòn vào dịp 30-4, với các khẩu hiệu minh thị chống đảng và chế độ cộng sản hiện nay và coi ngày 30-4-1975 là ngày “Uất hận của nhân dân Miền Nam, của dân tộc Việt Nam”, ngày mà sau đó họ đã ‘mất tài sản, đất đai và mất tự do, dân chủ và nhân quyền…”Mặt khác,Thứ trưởng Ngoại giao Việt Nam Nguyễn Thanh Sơn, đặc trách về người Việt Nam ở nước ngoài, cũng đã có những hoạt động tiếp xúc với một số người Việt có tiếng chống cộng ở hải ngoại và mời gọi “kiều bào” về nước đi thăm hải đảo Trường Sa, viếng nghĩa trang quân đội Biên Hòa, nơi chôn cất của hàng chục ngàn tử sĩ quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trong cuộc chiến tranh Quốc – Cộng vừa qua.Khi nhận định về các hiện tượng không bình thường và việc làm của viên Thứ trưởng đặc trách về người Việt ở nước ngoài vừa nêu, có người cho đó là dấu hiệu phía Việt Nam muốn tạo tiền đề cho “Hòa giải và hòa hợp dân tộc”.Thế nhưng về phía Việt Quốc đó đây vẫn vang lên tiếng nói quyết liệt chống “Hòa giải và hòa hợp dân tộc”.Để thấy rõ thực chất và thực tế của vấn đề “Hòa giải và hòa hợp dân tộc”, chúng tôi xin lần lượt trình bầy:- Vì sao hòa giải và hòa hợp dân tộc đã không thành tựu tại Việt Nam?- Phương cách nào có thể bảo đảm cho hòa giải và hòa hợp dân tộc thành tựu tại Việt Nam?Vì sao hòa giải và hòa hợp không thành công tại Việt Nam?
Vấn đề hòa giải và hợp dân tộc đã được nêu ra từ lâu, nhưng cho đến nay vẫn chưa thành tựu ở Việt Nam, dù đó là ước muốn chung của bất cứ người Việt Nam yêu nước nào. Vậy vì sao hòa giải và hòa hợp dân tộc chưa thành tựu tại Việt Nam?
Theo nhận định của chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu là sự bất đồng về phương thức thực hiện “Hòa giải và hòa hợp dân tộc” giữa khối người Việt quốc gia chống cộng với đảng và nhà cầm quyền hiện nay tại Việt Nam và sự thiếu tin tưởng vào thực tâm và thiện chí muốn hòa giải của các bên.
Thật vậy, để thấy được sự bất đồng vừa nêu, trước hết phải hiểu ý nghĩa chung và ý nghĩa riêng của cụm từ “Hòa giải và hòa hợp dân tộc”.
Về ý nghĩa chung: hoà giải là giải quyết mâu thuẫn một cách hoà bình để đi đến sự hợp nhất trong hoà bình. Nếu mâu thuẫn ấy là mâu thuẫn trong lòng một dân tộc, thì hoà giải và hoà hợp dân tộc đòi hỏi mâu thuẫn ấy phải được giải quyết một cách hoà bình để đi đến sự hoà hợp dân tộc trong hoà bình.
Từ ý nghĩa chung, đi vào ý nghĩa riêng của hoà giải và hoà hợp dân tộc tại Việt Nam: Đó là giải quyết một cách hoà bình mâu thuẫn phát sinh từ cuộc nội chiến Ý thức hệ Quốc – Cộng tại Việt Nam và tồn tại trong lòng dân tộc việt Nam cho đến hôm nay, để đi đến hoà hợp dân tộc.
Trong ý nghĩa riêng này cũng cần được hiểu theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp của cụm từ “hoà giải và hoà hợp dân tộc”. Theo nghĩa rộng là giải quyết hoà bình mâu thuẫn trong lòng dân tộc giữa những người Việt Nam theo ý thức hệ quốc gia và những người Việt Nam theo ý thức hệ cộng sản. Theo nghĩa hẹp là giải quyết hoà bình mâu thuẫn trong lòng dân tộc giữa hàng ngũ lãnh đạo trong cuộc chiến tranh Quốc – Cộng vừa qua (1954-1975) và cho đến hôm nay.
Theo nhận định của chúng tôi, đã từ lâu chứ không phải đợi đến bây giờ 39 năm sau ngày 30-4-1975 chấm dứt cuộc chiến tranh Quốc – Cộng tại Việt Nam, nghĩa rộng của cụm từ “hoà giải và hoà hợp dân tộc” không còn giá trị thực tế. Vì thực tế nhân dân hai Miền Bắc Nam đã tự giác “hòa giải và hòa hợp” từ lâu sau khi tự hoá giải mâu thuẫn một cách hoà bình bằng chính thực tiễn cuộc sống sinh động đã giúp tất cả có chung nhận thức về thực chất của cuộc chiến tranh Quốc – Cộng hôm qua (1954-1975) chỉ là một cuộc chiến do ngoại bang thực hiện, thông qua những chính quyền công cụ bản xứ, xô đẩy nhân dân hai miền Bắc – Nam vào một cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn, bằng những chiêu bài lừa mị, đã tàn phá đất nước, phân hoá dân tộc, để lại di hại nghiêm trọng, toàn diện và lâu dài cho đất nước.
Như vậy thực tế nay chỉ còn tồn tại trong lòng dân tộc ý nghĩa hẹp của cụm từ “Hoà giải và hoà hợp dân tộc”. Nghĩa là chỉ còn tồn tại mâu thuẫn trong hàng ngũ lãnh đạo dân tộc thuộc hai phe Quốc – Cộng. Thế nhưng hòa giải và hòa hợp dân tộc vẫn chưa thực hiện được tại Việt Nam vì các nhà lãnh đạo hai phe Việt Quốc và Việt Nam vẫn chưa thống nhất được phương cách hòa giải để đi đến hòa hợp dân tộc một cách hòa bình.
Về phía Việt Nam thì cho đến nay vẫn đã không chính thức đưa ra chủ trương, chính sách và lịch trình cụ thể nào để thực hiện “Hòa giải và hòa hợp dân tộc”. Trên thực tế bao lâu nay, ở thời điểm này hay thời điểm khác, Việt Nam vẫn chỉ đơn phương kêu gọi người Việt quốc gia hãy quên quá khứ, quên hận thù, đừng chống cộng nữa, mà hãy hợp tác toàn diện, vô điều kiện với đảng và nhà cầm quyền trong chế độ độc tài toàn trị cộng sản hiện nay, để xây dựng phát triển đất nước. Nghĩa là không có hòa giải (giải quyết những mâu thẫn căn bản một cách hòa bình) mà chỉ muốn có hòa hợp.
Trong khi phía Việt Quốc thì muốn thực hiện “hòa giải và hòa hợp dân tộc” theo đúng ý nghĩa chân chính của cụm từ này. Nghĩa là hai bên phải bằng cách nào đó, cùng ngồi lại với nhau để hóa giải mâu thuẫn căn bản về lãnh đạo dân tộc. Đó là mâu thuẫn giữa những người cộng sản lãnh đạo dân tộc theo con đường độc tài toàn trị, độc đảng độc quyền thống trị, với những người quốc gia lãnh đạo dân tộc theo con đường dân chủ pháp trị, đa nguyên đa đảng. Đây chính là mâu thuẫn căn bản giữa Việt Quốc và Việt Nam và là nguyên nhân cơ bản làm phân hoá dân tộc. Do đó “hoà giải và hoà hợp dân tộc” chính là giải quyết dứt khoát mâu thuẫn này một cách hoà bình để đi đến hoà hợp dân tộc toàn diện.
Tựu chung hòa giải và hòa hợp dân tộc đến nay chưa thành tựu, dù đó là ước muốn chung của bất cứ người Việt Nam yêu nước nào, là vì vai trò chủ động công cuộc hòa giải và hòa hợp là phía Việt Nam đã sử dụng phương cách hòa giải và hòa hợp dân tộc không đúng với ý nghĩa chân chính của cụm từ này.
Chính vì vậy mà phía Việt Quốc đã không tin tưởng phía Việt Nam có thực tâm và thiện chí muốn hòa giải và hòa hợp dân tộc, nên thực tế đã quyết liệt chống đối điều mà họ gọi là “hòa giải và hòa hợp một chiều của Việt Nam”, hoặc coi đó chỉ là ngụy trang cho chủ trương “chiêu hồi Việt Quốc của Việt Nam”. Chủ trương này chỉ muốn khơi động tình tự dân tộc để kêu gọi người Việt quốc gia hãy quên quá khứ, quên hận thù, thôi chống cộng cùng hợp tác với Việt Nam xây dựng và phát triển đất nước vẫn trong khung cảnh chế độ độc tài toàn trị cộng sản vốn là mâu thuẫn cơ bản.
Nhưng chủ trương này đã bị cự tuyệt vì mục tiêu tối hậu của Việt Quốc đấu tranh trong nhiều thập niên qua vẫn là nhằm thay thế chế độc độc tài toàn trị bằng một chế độ dân chủ pháp trị. Đây là một mâu thuẫn cơ bản đã đưa đến cuộc nội chiến ý thức hệ tại Việt Nam và là một mâu thuẫn đối kháng (một mất một còn) giữa Việt Quốc và Việt Nam. Vì vậy “hòa giải và hòa hợp dân tộc” sở dĩ bao lâu nay chưa thành tựu là vì mâu thuẫn đối kháng này vẫn tồn tại. Do đó nhiều người Việt Nam tin tưởng rằng, một khi mâu thuẫn đối kháng trên được giải quyết dứt điểm, thỏa đáng,“hòa giải và hòa hợp dân tộc” thực sự sẽ đến ngay.
Phương cách nào để hòa giải và hòa hợp dân tộc có thể thành tựu tại Việt Nam?
Vậy thì phương cách nào để hòa giải và hòa hợp dân tộc có thể thành tựu tại Việt Nam?
Theo nhận định của chúng tôi có hai phương cách thực hiện “Hòa giải và hòa hợp dân tộc” là song phương hòa giải và đơn phương hóa giải mâu thuẫn căn bản để đi đến hòa hợp dân tộc.
1. Phương cách song phương hòa giải mâu thuẫn để đi đến hòa hợp dân tộc. Theo phương cách này, đại diện hai bên Việt Nam và Việt Quốc ngồi lại với nhau để cùng giải quyết mâu thuẫn căn bản.
Trên thực tế trước đây đã có nhiều đề nghị, song đã không được quan tâm vì cả hai bên Việt Nam cũng như Việt Quốc đều chưa có thực tâm, không tin tưởng vào thiện chí của nhau, nội bộ còn nhiều bất đồng, hai bên chưa thống nhất về phương cách nên không thể thực hiện hòa giải và hòa hợp dân tộc theo đúng ý nghĩa chân chính của cụm từ này.(Như chúng tôi đã trình bầy ở trên).
Đến nay, thực tế cho thấy phương cách này vẫn không thể thực hiện được, ngay cả trường hợp phía Việt Nam có chính thức đưa ra chủ trương chính sách hòa giải và hòa hợp dân tộc, với lịch trình và các bước thực hiện cụ thể. Bởi phía Việt Quốc vẫn khó chấp nhận được vì hai trở lực nội bộ không thể vượt qua: một là đa số Việt Quốc vẫn không tin vào thực tâm hòa giải và hòa hợp dân tộc của Việt Nam do quá khứ có nhiều thất tín mà thất tín sau cùng là việc cưỡng chiếm Miền Nam (30-4-1975), vi phạm Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973, trong đó có đề cập đến việc thành lập “chính phủ hòa giải và hòa hợp dân tộc” gồm ba thành phần. Hai là trong tình trạng phân tán đa đầu về tổ chức của Việt Quốc, sự bất đồng về tư cách đại diện cho Việt Quốc để tham dự hòa giải và hòa hợp dân tộc với Việt Nam là một thực tế khó vượt qua.
Phương cách này cá nhân chúng tôi đã thử đưa ra trong “Giải Pháp Toàn Cuộc Cho Vấn Đề Tương Lai Dân Tộc Việt Nam” vào Tháng 4-1995, khi mà đa số các nhà lãnh đạo hàng đầu của cuộc chiến tranh Quốc-Cộng còn sống, tư cách đại diện có thể dễ dàng được đồng thuận hơn.
Theo giải pháp này, chúng tôi đề nghị các nhà lãnh đạo Việt Nam và Việt Quốc cùng nhau thực hiện tiến trình hòa giải qua “Ba bước đến nền dân chủ nhất nguyên dân tộc”:
Bước một: Triệu tập “Hội Nghị Hóa Giải Mâu Thuẫn Về Lãnh Đạo Dân Tộc”
Bước Hai : Triệu tập “Hội Nghị Thống Nhất Toàn Lực Quốc Gia”
Bước Ba: Hình thành “Chế Độ Dân Chủ Nhất Nguyên Dân Tộc”.
Trong giải pháp này chúng tôi có đề nghị cụ thể về thời gian, không gian, thành phân tham dự, nghị trình, trách nhiệm tổ chức và chi phi…
Về thành phần tham dự về phía Việt Quốc gồm các nhà lãnh đạo trong ba ngành hành pháp, lập pháp, tư pháp của chế độ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). Về phía Việt Nam gồm các nhà lãnh đạo có thẩm quyền trong cơ chế Đảng và Nhà nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).
Về trách nhiệm tổ chức giao cho Thủ tướng đương nhiệm chính phủ CHXHCNVN với chi phí do ngân sách quốc gia đài thọ…Tiếc rằng giải pháp đề nghị này đã không được các nhà lãnh đạo Việt Nam cũng như Việt Quốc quan tâm.(1)
Vì vậy, nay nếu có muốn dùng phương cách “song phương hòa giải” cách nào đó cũng khó khả thi. Chúng tôi nghĩ đến một phương cách thứ hai
2. Phương cách đơn phương hóa giải mâu thuẫn để đi đến hòa hợp dân tộc.
Đây là phương cách khả thi nếu đảng và nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay thực tâm, có thiện chí muốn thành tựu “hòa giải và hòa hợp dân tộc”.
Theo phương cách này, đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay chỉ cần đơn phương, chủ động, tích cực thực hiện tiến trình dân chủ hóa, điều mà thực tế Việt Nam đã và đang làm sau khi thực hiện chính sách “Đổi mới” thất bại (1986-1995) phải “mở cửa” (1995- nay) thực hiện trên nguyên tắc “Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa” (là giả), song thực tế diễn biến “kinh tế thị trường tất yếu định hướng tư bản chủ nghĩa” (là thật). Nay muốn hóa giải mâu thuẫn căn bản để có hòa hợp dân tộc, Việt Nam chỉ cần chủ động, đơn phương kết thúc quá trình dân chủ hóa đất nước vào thời điểm thích hợp, không gây xáo trộn bất lợi cho đất nước.
Phương cách này trước đây chúng tôi cũng đã từng đề nghị các bước thực hiện như sau:
1.- Quốc hội đương nhiệm sửa đổi Hiến pháp hiện hành, theo hướng dân chủ pháp trị, đa đảng.
2. Quốc hội cơ quan lập pháp đương nhiệm sau đó cần:
– Làm luật tu chỉnh hoặc luật mới thay thế những luật lệ trái với Hiến pháp dân chủ pháp trị, đa đảng (Luật Đất Đai, Nhà đất, Luật Hình, Luật Hộ…)
– Làm “Luật chính đảng” để cho phép các chính đảng được thành lập và tham gia sinh hoạt chính trị hợp pháp trong chế độ dân chủ đa đảng.
– Làm“Luật ứng cử và bầu cử” vào các chức vụ dân cử để thực thị Hiến pháp dân chủ pháp trị, đa đảng.
– Làm “Luật Hòa Giải Dân Tộc” nhằm hóa giải hận thù quá khứ, ngăn ngừa mọi hành vi phục thù chính trị trong tương lai do những nguyên nhân từ quá khứ.
3. Chính phủ, cơ quan hành pháp đương nhiệm chiếu nhiệm vụ qui định của Hiến pháp sửa đổi, bằng các văn bản lập qui dưới luật, để điều chỉnh theo các luật lệ đã được Quốc hội sửa đổi một cách phù hợp với thời gian, không gian và tiến trình hoạt động bình thường của guồng máy công quyền quốc gia, để tránh mọi sự xáo trộn, bất ổn chính trị và xã hội, bất lợi cho đại cuộc.
4.-Mọi cơ cấu tổ chức và nhân sự điều hành chính quyền các ngành, các cấp từ trung ương đến địa phương trên cả nước vẫn duy trì nguyên trạng và hoạt động bình thường.
5.- Ngưng bắt bớ giam cầm và thả tất cả các tù nhân chính trị để chứng tỏ thực tâm muốn “hòa giải và hòa hợp dân tộc” của đảng và nhà cầm quyền đương thời tại Việt Nam
Chúng tôi tin rằng nếu phía Việt Nam “Đơn phương, chủ động, tích cực hóa giải mâu thuẫn căn bản” theo phương cách này, ước mơ “hòa giải và hòa hợp dân tộc” bao lâu nay của bất cứ người Việt Nam yêu nước nào sẽ thành tựu. Vì phía Việt Quốc sẽ không còn lý do tiếp tục chống cộng hay chống hòa giải (kiểu Việt Nam) khi mà mục tiêu tối hậu của chống cộng là tự do, dân chủ, nhân quyền cho đất nước đã thành đạt. Sau đó, việc hợp tác hay không hợp tác để xây dựng và phát triển đất nước trong khung cảnh chế độ tự do dân chủ là quyền tự do lựa chọn của cá nhân cũng như các đoàn thể chính trị Việt quốc,trong cũng như ngoài nước, không còn là vấn đề.
Ghi chú: (1) và (2) chi tiết các phương cách này xin vào:luatkhoavietnam.com, mục “Diễn Đàn”. Tiểu mục”Tác giả tác phẩm” để đọc “ tài liệu nghiên cứu lý luận Việt Nam Trong Thế chiến Lược Quốc Tế Mới”, Chương II (Luận bàn về một một giải pháp toàn cuộc cho vấn đề tương lai dân tộc Việt Nam) và Tiểu mục “Đất nước- Cộng Đồng” để đọc “Đâu là giải pháp khả thi để cứu nước và phát triển toàn diện đất nước”.
Nếu không có đảng cộng sản, Việt Nam sẽ ra sao?
Thiện Ý
24.02.2015
Tại Việt Nam, thông thường vào những dịp lễ Tết, các phương tiện truyền thông độc quyền của đảng và nhà nước cộng sản Việt Nam đã ngày đêm cho phát bài “Đảng cho ta một mùa xuân” của Phạm Tuyên. Người ta thấy có hai điều nghịch lý:
Nghịch lý thứ nhất là những lời lẽ ca tụng đảng CSVN hòan tòan trái ngược với những gì đã và đang xảy ra trên thực tế, kể từ khi đảng này cướp được chính quyền, trên một nửa nước Miền Bắc (1954-1975 ) và trên cả nước kể từ sau ngày 30-4-1975. Đây là nguyên văn một vài lời ca ấy, chỉ cần nghe qua thôi, người dân Việt Nam bình thường cũng thấy ngay sự láo khóet trơ trẽn, khiến những người nghe nhạy cảm có thể buồn nôn hay những nạn nhân của Cộng đảng có thể phẫn nộ không ngăn được tiếng chửi bình dân: “…đúng là cộng sản gian ác, ăn gian nói dối”.
Lời ca rằng “Đảng đã cho ta một Mùa xuân đầy ước vọng, một mùa xuân tươi tràn ánh sáng khắp nơi nơi…”; rằng “ Bao năm khổ đau đất nước ta không có mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm. Vừng dương hé sáng khi khắp nơi ta có Đảng, bóng tối lui dần, tiếng chim vui hót vang…”.
Lời ca này phải được viết lại như sau mới đúng với lịch sử và thực tế: “Đảng đã đã không cho mà đã cướp mất, không chỉ một, mà tất cả những mùa xuân đầy ước vọng của mỗi người dân Việt Nam và mùa xuân của cả dân tộc. Bao năm khổ đau đất nước ta không có Mùa xuân, cuộc đời tăm tối chốn lao tù bao hờn căm” kể từ khi có Đảng. Vừng dương chỉ hé sáng khi khắp nơi nơi không còn có Đảng, và bóng tối sẽ lui dần, tiếng chim sẽ vui hót vang lừng …khi Đảng tiêu vong.
Điều nghịch lý thứ hai là, Phạm Tuyên, tác giả bài hát có những lời ca ngợi đảng CSVN như thế lại là con của học giả Phạm Quỳnh, người đã bị Việt Minh sát hại vào tháng 9 năm 1945, vì cái gọi là “tội phản động”. Chúng ta hãy nghe báo Tự Do Ngôn Luận số 93 phát hành ngòai luồng trong nước trước đây nhận định: “Đây là một trong những bài hát lố bịch, trơ trẽn nhất của Cộng sản Hà Nội, được sáng tác năm 1960 bởi một nhạc sĩ bồi bút hạ đẳng (hay thượng đẳng cũng vậy), kẻ đã viết rất nhiều ca khúc nâng bi chế độ bằng chính máu của thân phụ mình, học giả Phạm Quỳnh (bị Hồ Chí Minh ra lệnh xử tử ngày 6-9-1945) và bằng chính máu của các bạn nghệ sĩ nạn nhân vụ Nhân văn Giai phẩm”. Báo này viết tiếp “…đểu giả, lố bịch và trơ trẽn, vì bài hát ca tụng đảng như Thượng Đế, như Ông Trời, đang lúc kể từ khi nó xuất hiện trên đất nước cho tới nay, thực tế đã hoàn toàn trái ngược. Sự kiện chứng minh thì vô số vô vàn. Quê hương của con Hồng cháu Lạc, từ ngày bị ác đảng đó thống trị, chỉ trông thấy mùa đông tang thương u ám, chỉ nhìn thấy sự suy thoái cằn cỗi tụt hậu, chỉ nghe thấy tiếng thở than chán đời, chỉ cảm thấy nỗi cay đắng tủi nhục, chỉ nếm thấy sự giả trá thù hận và chỉ mộng thấy một chân trời u ám, một tương lai tối đen…Suốt trên 60 năm nay, toàn dân rên siết dưới tay toàn đảng, qua toàn bộ chủ trương đường lối nhắm mục tiêu toàn trị bằng khủng bố và cướp bóc, bằng lừa gạt và bạo hành”.
Vậy thì một giả định lịch sử, là nếu không có đảng CSVN ra đời vào ngày 3-2-1930, Việt Nam sẽ ra sao? Câu trả lời chung của nhiều người Quốc gia cũng như cộng sản phản tỉnh là:
1/- Nếu không có đảng CS thì cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của các chính đảng quốc gia và các nhà ái quốc theo ý thức hệ Quốc gia đã gìành được độc lập vào Tháng 8 năm 1945, sau khi Nhật dầu hàng đồng minh, trao trả độc lập cho chính quyền quốc gia Trần Trọng Kim.
2/- Nếu không có đảng CS thì đã không có cuộc kháng chiến 9 năm vô ích do đảng này và Hồ Chí Minh phát động,làm hao tổn quá nhiều xương máu nhân dân và nhân tài vật lực quốc gia do chủ trương tiêu diệt “phản động” và “tiêu thổ kháng chiến” của Việt Minh Cộng sản.
3/- Nếu không có đảng CS thì Việt Nam đã không rơi vào thế gọng kìm của cuộc chiến tranh ý thức hệ, với số phận không may: Đất nước qua phân, chiến tranh cốt nhục tương tàn kéo dài 21 năm (1954-1975), sát hại nhiều người Việt Nam trên cả hai miền đất nước, làm phân hóa và suy yếu dân tộc
4/- Sau cùng, nếu không có đảng CS,Việt Nam đã là một nước có chế độ dân chủ pháp trị từ lâu, như hầu hết các nước thuộc địa khác cùng thời, đã được các đế quốc thực dân Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha trao trả độc lập sau Thế Chiến Thứ Hai. Vì đây là xu thế giải thực tất yếu của thời đại hậu Thế Chiến II.
Đến đây thì ai cũng thấy đảng CSVN đã chẳng có công mà chỉ có tội với nhân nhân, với dân tộc và đất nước. Sự ra đời của Cộng đảng Việt Nam thực tế không phải là cái phúc, chẳng phải là “cứu tinh” như họ từng rêu rao láo khóet, mà là một tai họa “vô tiền khóang hậu”, đã để lại hậu quả nghiêm trọng, toàn diện cho Tổ Quốc Việt Nam, di hại cho các thế hệ người Việt Nam hiện tại cũng như nhiều thế hệ tương lai. .
http://www.voatiengviet.com/content/neu-khong-co-dang-cs-vietnam-se-ra-sao/2655277.html
30/4: ‘Quốc gia thua để thắng, CS thắng để thua’
Thiện Ý
29.04.2014
Ðúng 39 năm trước đây (1975-2014), ngày 30 tháng 4 năm 1975, cuộc nội chiến ý thức hệ Quốc-Cộng giai đoạn 2 tại Việt Nam đã chấm dứt sau 21 năm diễn biến khốc liệt (1954-1975).
Sau cuộc chiến, đã có nhiều cách lý giải và đánh giá về sự kết thúc chiến tranh Việt Nam một cách không bình thường. Riêng chúng tôi, nhân ngày 30 tháng 4 lần thứ 39 hôm nay, chỉ xin nhắc lại một cách đánh giá tổng quát đã được đưa ra chỉ vài năm sau cuộc chiến chấm dứt (1), để quý độc giả cảm nghiệm xem có đúng với những gì đã và đang xây ra trên thực tế hay không. Ðó là ý nghĩa lịch sử về Ngày 30-4-1975: “Quốc gia thua để thắng, Cộng sản thắng để thua”. Vì sao?
Vì CSVN vốn là công cụ bành trướng chủ nghĩa thực dân mới của Ðế quốc Ðỏ Liên Xô trong thời kỳ “Chiến tranh Ý thức hệ” diễn ra dưới hai hình thái “Chiến tranh Lạnh” giữa các nước giầu và “Chiến tranh Nóng” nơi một số các nước nghèo, trong đó có Việt Nam được chọn làm tiền đồn của hai phe tư bản và cộng sản. Do đó ý đồ và mục tiêu của đảng CSVN không thể khác ý đồ và mục tiêu của đảng Cộng Sản Liên Xô (CSLX). Như vậy, thực tế sau ngày 30-4-1975, nếu là một “Chiến thắng thật”, tình hình Việt Nam phải khác, nghĩa là CSVN phải được Liên Xô và các nước “Xã Hội Chủ Nghĩa anh em” hổ trợ tích cực, toàn diện và vô điều kiện để xây cựng thành công chủ nghĩa xã hội tại thuộc địa kiểu mới Việt Nam, phát huy thắng lợi để tiếp tục đẩy mạnh “Chiến tranh Cách mạng”, “Chiến tranh Giải phóng” đến các nước trong vùng như Lào, Campuchia, Thái Lan, Miến Ðiện, Malaysia, Philippines, v.v…Thế nhưng thực tế hoàn toàn khác: Tất cả những điều đáng lẽ phải xẩy ra đó đã không xẩy ra sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc.
Thực tế sau đó Liên Xô đã thất bại trong nỗ lực “Cải Tổ” (Glasnost) và “Tái cấu trúc” (Perestroika) đi đến sụp đổ, kéo theo sự tiêu vong các nước XHCN Ðông Âu. Trung Cộng thực hiện chính sách “Mở cửa” làm ăn với Tư bản. Chế độ công cụ Việt Cộng vội đưa ra chính sách “Ðổi Mới” theo gương “Cải Tổ” của Liên Xô (1986). Rồi vội cầu hoà với Trung Cộng và học tập lý luận sáng tạo mới của nước đàn anh xấu bụng và có tham vọng bá quyền này, rằng: “Chủ nghĩa xã hội cũng có thể áp dụng kinh tế thị trường” được Việt cộng hoá thành con đường “Ðổi mới” qua “Kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa”(!?!).
Ðây là lối lý luận ngụy biện, cưỡng ép nhằm che đậy thực trạng và chiều hướng mới không thể đảo ngược tại Việt Nam cũng như toàn cầu: Chủ nghĩa xã hội đã phá sản, đã tiêu vong tại Liên Xô, đang tiêu vong tại Việt Nam và các nước XHCN còn lại (Trung Cộng, Bắc Triều Tiên và Cuba).
Quá trình tiêu vong CNXH tại Việt Nam khởi đi từ ngày 30-4-1975 là ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam. Việt Cộng đã lý luận cưỡng ép, ngụy biện, duy ý chí, vì nó trái ngược với thực tế. Thực tế phát triển trong môi trường kinh tế thị trường không thể định hướng XHCN, mà tất yếu sẽ phải phát triển theo hướng tư bản chủ nghĩa. Trong môi trường này, tất yếu nhà nước XHCN sẽ bị tư bản hoá, chế độ chuyên chính vô sản sẽ được dân chủ hoá từng bước, và các cán bộ đảng viên cộng sản đã và đang được tư sản hoá trở thành những nhà tư bản Ðỏ, những “Đại gia Đỏ vỏ xanh lòng”. Chiều hướng phát triển này đã được thể hiện ngày càng rõ nét trên thực tế tại Việt nam, ai cũng có thể thấy và kiểm chứng được.
Và thực tế như thế rõ ràng là ngày 30-4-1975 “Cộng sản thắng để thua” cuộc thực sự vào cuối quá trình của sự tiêu vong chế độ XHCN về mặt bản thể. Bởi vì, cuối cùng thì mục tiêu và lý tưởng của những người CSVN đã không đạt được. Trái lại, thực tế đã thúc ép, dẫn dắt và buộc được CSVN phải đi vào quỹ đạo (tự do, kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc) và thực hiện theo đúng lý tưởng của người quốc gia (tự do, dân chủ, nhân quyền tất thắng)và mục tiêu tối hậu (dân chủ hoá Việt Nam, phát triển toàn diện đất nước trong nền kinh tế thị trường) của đối phương (Việt quốc).Đây mới đúng là “Chiều hướng mới không thể đảo ngược” (Dân chủ pháp trị tất thắng độc tài toàn trị).
Thật vây, đối phương của Việt Cộng là những người Việt Quốc gia, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh trước sau như một: tiêu diệt độc tài, xây dựng chế độ dân chủ tự do, xã hội công bằng, phát triển toàn diện đất nước đến phú cường, văn minh tiến bộ theo kịp đà tiến hoá chung của nhân loại.
Và vì vậy, kể từ sau ngày giành được độc lập từ tay thực dân Pháp vào năm 1954, mong muốn chân thành của những người Việt Quốc Gia ở Miền Nam Việt Nam, kẻ cầm quyền cũng như dân giả, là thiết lập một chế độ độc lập dân tộc, dân chủ tự do (Việt Nam Cộng Hoà) và phát triển toàn diện Miền Nam đến giầu mạnh. Thành quả mong muốn này sẽ tạo thành sức mạnh tổng hợp chính trị (dân chủ), kinh tế (giầu mạnh), xã hội(công bình) khả dĩ đánh bại chế độ của những người Cộng sản Bắc Việt: chính trị (độc tài toàn trị), kinh tế (nghèo đói), xã hội (áp bức, bất công), mà không cần xử dụng sức mạnh quân sự tiêu diệt đối phương (Việt cộng).
Nói cách khác, thay vì dùng chiến tranh để áp đặt mô hình chủ nghĩa quốc gia hay chủ nghĩa xã hội, hai chế độ chính trị đối nghịch trên hai Miền Bắc, Nam sẽ có thời gian và cơ hội thi đua thực hiện mô hình chính trị, kinh tế, xã hội của mình, chờ cơ may thống nhất đất nước một cách hoà bình, thông qua con đường hòa bình và dân chủ. Lúc đó, mô hình xây dựng và phát triển đất nước nào (của Việt quốc hay Việt cộng) có hiệu quả thực tiễn sẽ ưu thắng, sẽ được nhân dân hai miền chọn lựa bằng lá phiếu của đa số trong một cuộc trưng cầu dân ý tự do thực sự, có giám sát quốc tế nếu cần.
Thế nhưng ước muốn chân thành và hết sức có lợi cho đất nước và dân tộc trên đây của những người Việt quốc gia ở Miền Nam đã không được những người CSVN ở Miền Bắc đáp ứng.
Bởi lý tưởng và mục tiêu của những người CSVN hoàn toàn khác biệt với lý tưởng và mục tiêu của người Việt quốc gia. Sự khác biệt rõ nét nhất là Người Quốc Gia hành động tất cả vì Quốc Gia Dân Tộc, cho Tổ Quốc Việt Nam, trong khi những Người Cộng Sản Việt Nam hành động tất cả vì Quốc Tế Cộng Sản, cho Tổ Quốc Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Xô. Do đó, để làm tròn nghĩa vụ công cụ bành trướng hầu áp đặt chủ nghĩa cộng sản trên cả nước, đảng CSVN đã phát động và tiến hành cuộc chiến tranh thôn tính Miền Nam, đẩy chính quyền và nhân dân Miền Nam Việt Nam vào một cuộc chiến tranh tự vệ và Hoa Kỳ có cớ can thiệp ngày càng sâu rộng vào chủ quyền VNCH. Cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn này đã kéo dài hơn 20 năm (1954-1975), sát hại hàng triệu sinh linh, tàn phá đất nước, di hại lâu dài nhiều mặt cho đất nước và dân tộc Việt Nam.
Nhưng rồi sau cùng thì cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn cũng đã phải kết thúc và đã kết thúc một cách không bình thường, do sự sắp xếp tiền định của ngoại bang, đã để cho CSBV “thắng cuộc chiến” một cách dễ dàng, không cần chiến đấu(vì đối phương bị ép buộc đầu hàng) không cần giữ đất và không đủ người để tiếp thu (vì bất ngờ, tốc độ rút lui của VQ nhanh hơn tốc độ tiến quân của VC)
Chính vì sự kết thúc chiến tranh không bình thường này, mà ngay từ những ngày tháng năm đầu, khi cuộc chiến vừa tàn, người Việt Quốc gia ở Miền Nam không khỏi nghĩ lại nhận định có tính tiên liệu của hai ngoại nhân. Một là Tướng độc nhản Moise Dayan, Bộ Trưởng Do Thái lúc bấy giờ khi đến thăm Miền Nam; hai là Sir Wilson. một chuyên viên Anh quốc làm cố vấn về du kích chiến cho Hoa Kỳ trong chiến tranh Việt Nam; Cả hai ngoại nhân này đều có chung nhận định đại ý “Muốn chiến thắng cộng sản tại Việt Nam, chỉ còn cách cộng sản hoá Nam Việt Nam”. Nay thì Miền Nam Việt Nam đã bị cộng sản hoá sau ngày 30-4-1975. Chế độ cộng sản đã thiết lập 39 năm qua trên toàn cõi Việt nam. Như vậy phải chăng “Quốc gia đã thua để thắng” và “Cộng sản thắng để thua” trong một tương lai không xa ?
Nếu đúng như vậy thì tại sao và Quốc gia thắng cộng sản như thế nào?
1.- Tại vì mục tiêu và lý tưởng đấu tranh của người Việt Quốc gia trước sau như một, vẫn là chân lý tất thắng của thời đại (độc lập dân tộc, tự do dân chủ, nhân quyền và chủ nghĩa quốc gia), có chính nghĩa, đáp ứng đúng khát vọng toàn dân(độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc thực sự, không phải chỉ là bánh vẽ như VC ). Chân lý, chính nghĩa và khát vọng ấy, nếu người Việt Quốc gia đã mất cơ hội thành đạt trước 30-4-1975, trong chiến tranh tự vệ, trên chiến trường, thì hôm nay, sau 39 năm kiên trì tiếp tục cuộc đấu tranh cho lý tưởng và mục tiêu của mình, đã và đang buộc được CSVN phải mặc nhiên tự thú sai lầm, phải sửa sai và từng bước lùi dần về phía dân chủ, trả lại dần dần cho nhân dân quyền tự do và các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền căn bản.
2.- Quốc gia thắng Cộng sản như thế nào?
Chế độ CHXHCN Việt nam do đảng CSVN áp đặt tại Việt Nam đã và đang trên quá trình tiêu vong và đã bước vào giai đoàn cuối cùng: Tiêu vòng hoàn toàn về mặt bản thể trong “Môi trường mật ngọt kinh tế thị trường theo định hướng tư bản chủ nghĩa”. Trong môi trường mật ngọt này,từng bước tịnh tiến cán bộ đảng viên CS được tư sản hoá, nhà nước CS được tư bản hoá và chế độ CS được dân chủ hoá. Ðó là quá trình tiêu vong tất yếu của đảng và chế độ CSVN, xác định sự toàn thắng của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ Việt nam. Sự tất yếu này đến mau hay chậm là tùy thuộc vào ba lực đẩy, lực xoay cùng chiếu chủ yếu:
– Một là sự tự hủy do phân hoá nội bộ đảng và chế độ CSVN.
– Hai là cường độ và hiệu quả thực tế của các hình thức đấu tranh của các lực lượng quốc gia, dân tộc, dân chủ trong cũng như ngoài nước, thu hút được quần chúng,tạo ra cao trào đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, nhân quyền của nhân dân trong nước.
– Ba là áp lực trên đảng và chế độ CSVN của các cực cường, các chính quyền dân chủ,Liên Hiệp Quốc, các tổ chức kinh tế tài chánh quốc tế và các tổ chức bảo vệ nhân quyền quốc tế.
Vì vậy cho đến nay, dưới áp lực của ba mũi giáp công cùng chiều trên đây, mới chỉ thúc ép được chế độ độc tài toàn trị hiện nay lùi dần về phía dân chủ. Chất dân chủ đã và đang đẩy lùi chất độc tài và tích lũy thành lượng dân chủ. Khi lượng dân chủ tích lũy đủ triệt tiêu hoàn toàn chất độc tài, thì theo qui luật duy vật biện chứng mà những người cộng sản Việt nam từng tin như giáo điều, rằng “Lượng đổi, chất đổi”, thì chế độ độc tài toàn trị hiện nay sẽ tiêu vong hoàn toàn bản thể để hình thành chế độ dân chủ tại Việt nam.
Tóm lại: 39 năm trước đây, ngày 30-4-1975 cuộc chiến tranh Quốc-Cộng tại Việt Nam đã kết thúc không bình thường đã chỉ đem lại một chiến thắng biểu kiến cho đảng Cộng sản Việt Nam.
Thực tế đã ngày một khẳng định cuộc chiến tranh kết thúc như thế không phải là thắng lợi của phe này (Việt cộng) đối với phe kia (Việt quốc), mà chỉ là do nhu cầu thay đổi thế chiến lược quốc tế mới của các cường quốc cực, nắm trung tâm quyền lực thế giới. Do đó, thực tế đã ngày một khẳng định ngày 30-4-1975 chỉ là khởi điểm một quá trình đưa CSVN đến sự tiêu vong về bản thể, để hình thành một chế độ dân chủ mai hậu tại Việt Nam theo chiều hướng mới KHÔNG THỂ ÐẢO NGƯỢC : Dân chủ tất thắng độc tài.
Một khi chế độ độc tài cộng sản tiêu vong về mặt bản thể, lý tưởng và mục tiêu đấu tranh của những người CSVN đã không đạt được, nay phải xoay chiều, cách này hay cách khác cố thực hiện những điều mà người Việt Quốc Gia đấu tranh chưa đạt. Và như thế có thể kết luận rằng: 30-4-1975 quả thực “Quốc gia đã thua để thắng và Cộng sản đã thắng để thua”.
Thiện Ý
Houston, Tháng Tư 2014
(1)Xin vào: luatkhoavietnam.com, mục “Diễn Đàn”, tiểu mục “Tác giả & Tác phẩm” để đọc “Việt Nam Trong Thế Chiến Lược Quốc Tế Mới” của Thiện Ý, khởi thảo từ trong nước (1976-1977), ấn hành lần đầu 1995 và tái bản năm 2005 tại Hoa Kỳ. Vào tiểu mục “Phỏng vấn & Hội luận” để nghe Đài VOA phỏng vấn tác giả Thiện Ý về tác phẩm này.
http://www.voatiengviet.com/content/thang-tu-ngay-ba-muoi-quoc-gia-thua-de-thang-cs-thang-de-thua/1903051.html
Trần Gia Phụng – HÒA GIẢI BẰNG HIỆP ĐỊNH
Sau kinh nghiệm hòa giải năm 1945, những thành phần theo chủ nghĩa dân tộc, quy tụ trở lại chung quanh cựu hoàng Bảo Đại, ở thế chẳng đặng đừng liên kết với Pháp năm 1949, thành lập chính thể Quốc Gia Việt Nam, chống Việt Minh cộng sản. Chiến tranh kéo dài đến năm 1954, và kết thúc bằng Hiệp định Genève ngày 20-4-1954, chia hai Việt Nam tại vĩ tuyến 17. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) ở phía bắc, thường được gọi là Bắc Việt Nam (BVN); Quốc Gia Việt Nam (QGVN), đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) ngày 26-10- 1955, ở phía nam, thường được gọi là Nam Việt Nam (NVN).
HÒA GIẢI BẰNG HIỆP ĐỊNH GENÈVE
Danh xưng chính thức của hiệp định Genève là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, nghĩa là hiệp định Genève chỉ là một hiệp định có tính cách thuần túy quân sự, hai bên ngưng chiến đấu, tập trung ở hai vùng khác nhau và hiệp định nầy không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam cùng các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp vào ngày 21-7-1954 và cùng nhau bàn thảo bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”.
Bản tuyên bố gồm 13 điều; quan trọng nhất là điều 7, ghi rằng: “Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.” (Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Sài Gòn: Trình Bày, 1973, tr. 53.)
Điểm đặc biệt là sau khi soạn thảo xong bản tuyên bố nầy, chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, CHNDTH, VNDCCH, Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng “đồng ý”. Bảy phái đoàn nầy tuy đồng ý, nhưng không ký vào bản tuyên bố, và chỉ trả lời miệng mà thôi. (Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nam Á 2002, tr. 2642. Có thể tìm trong Google bằng tiếng Anh hoặc tiếng Pháp.) Một văn kiện quốc tế không có chữ ký, thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành.
Phái đoàn QGVN và phái đoàn Hoa Kỳ không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn QGVN và Hoa Kỳ đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình. Tuy nhiên, chính phủ QGVN vẫn tôn trọng Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và thi hành việc chia hai nước Việt Nam theo đúng thỏa thuận quốc tế.
Nếu để cho Nam Việt Nam (NVN) yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn NVN với nền kinh tế tự do sẽ phát triển và vượt xa VNDCCH hay Bắc Việt Nam (BVN) với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản. Đó chính là điều mà BVN thực sự lo lắng.
Sự giúp đỡ của Hoa Kỳ cho NVN chẳng những khiến BVN rất quan ngại, mà sự hiện diện của người Hoa Kỳ tại NVN còn khiến cho cả Trung Cộng chẳng yên tâm. Không kể cuộc tranh chấp ở Nam Triều Tiên, Hoa Kỳ đã từng giúp chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa tiễu trừ đảng CS ở lục địa, và nay đang giúp Trung Hoa Dân Quốc bảo vệ Đài Loan (Taiwan), chống Trung Cộng. Trung Cộng mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay người Hoa Kỳ lại có mặt ở NVN, gần sát với Trung Cộng, nên Trung Cộng rất quan ngại cho an ninh của chính Trung Cộng.
Vì Liên Xô và Trung Cộng đều chống Hoa Kỳ, nên cả hai hậu thuẫn cho BVN mở cuộc chiến xâm lăng NVN. Bắc Việt Nam đưa ra chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, vừa để khích động lòng yêu nước của dân chúng BVN chống lại NVN, vừa để phù hợp với chủ trương chống Hoa Kỳ của Trung Cộng và Liên Xô.
Như thế, rõ ràng các lý do “thống nhất đất nước” và “chống Mỹ cứu nước” chỉ có tính cách biểu kiến bên ngoài, dùng làm chiêu bài động binh, trong khi lý do thật sự được nhà nước BVN che đậy là tham vọng lớn lao của đảng Lao Động (LĐ) tức đảng Cộng Sản, muốn đánh chiếm toàn bộ Việt Nam, bành trướng chủ nghĩa CS đồng thời thi hành nghĩa vụ quốc tế, như lời Lê Duẫn nói, đánh NVN là “đánh cho Liên Xô, đánh cho Trung Quốc”. Kế hoạch tấn công NVN đã được đảng LĐ chuẩn bị trước khi ký hiệp định Genève ngày 20-7-1954, thấy rõ trong kế hoạch Liễu Châu đầu tháng 7-1954.
Trước khi hiệp định Genève được ký kết, tại Liễu Châu (Quảng Tây, Trung Hoa), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Cộng, bí mật gặp gỡ Hồ Chí Minh, chủ tịch VNDCCH, đưa ra kế hoạch là trước khi rút người ra BVN theo quyết định của Hiệp định Genève, đảng LĐ gài cán bộ ở lại NVN, đồng thời phân tán và chôn giấu võ khí ở lại NVN để chuẩn bị chiến đấu về sau. (Về hội nghị Liễu Châu, mời đọc Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề tiếng Việt là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27, “Hội nghị Liễu Châu then chốt”.)
Như thế, ngay trước khi ký hiệp định Genève vào ngày 20-7-1954, phía cộng sản đã chủ tâm sắp đặt trước kế hoạch trường kỳ mai phục ở NVN, chuẩn bị lực lượng tiếp tục chiến tranh. Ngoài chuyện gài cán bộ đảng viên lẩn trốn trong dân, đảng LĐ còn có cách cài người rất thâm hiểm là cho cán bộ đảng viên đảng LĐ vội vàng cưới vợ trước khi tập kết ra Bắc. Những người vợ ở lại NVN và con cái từ các cuộc hôn nhân nầy sinh ra, sẽ tiếp tay cho cán bộ CS khi họ trở về hoạt động.
Trong khi đó, để kiếm cớ gây chiến, đảng LĐ tức đảng cộng sản BVN lại đổ lỗi cho phía NVN không tôn trọng hiệp định Genève, trong khi chính hiệp định Genève chỉ là một hiệp định đình chiến mà thôi và không đưa ra giải pháp chính trị. Còn giải pháp chính trị được dự tính trong bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”, thì không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, không có giá trị pháp lý. Lý do có thể là phía CS (Trung Cộng, CSVN) tại Liễu Châu đã quyết định tiếp tục cuộc chiến, nên vận động không ký vào bản tuyên bố cho dễ hành động về sau nầy.
Đó là cách hòa giải bằng hiệp định Genève của CSVN. Tạm dừng để lấy sức, rồi tiếp tục chiến tranh. Cách hòa giải nầy đưa đến việc BVN tái phát động cuộc chiến năm 1960, và dùng viện trợ của khối CS quốc tế, nhất là Liên Xô và Trung Cộng, tấn công NVN.
(Xem tiếp theo sau)
HÒA GIẢI BẰNG HIỆP ĐỊNH PARIS (Tiếp theo trên)
Chiến tranh Việt Nam lọt vào cao điểm chiến tranh lạnh toàn cầu. Liên Xô, Trung Cộng giúp đỡ, viện trợ cho BVN. Ở thế yếu, NVN phải nhờ Hoa Kỳ giúp đỡ, viện trợ. Điểm khác nhau quan trọng là Liên Xô và Trung Cộng gởi quân viện cho BVN, và BVN sử dụng quân đội BVN và du kích NVN để chiến đấu ở NVN. Liên Xô chỉ gởi chuyên viên ở hậu phương chứ không ra chiến trường. Ngoaøi quaân vieän, töø thaùng 6-1965 ñeán thaùng 3-1968, TQ gôûi sang BVN 320,000 quaân, truù ñoùng ôû caùc tænh vaø thaønh phoá phía baéc Haø Noäi, ñieàu khieån caùc suùng phoøng khoâng, söûa chöõa ñöôøng saù, caàu coáng, ñöôøng xe löûa, baûo veä caùc tænh phía baéc, nhaèm giuùp BVN keùo heát löïc löôïng xuoáng taán coâng NVN. (Qiang Zhai, China & the Vietnam Wars, 1950-1975, The University of Carolina Press, 2000, tr. 135.) Về phía Hoa Kỳ, Hoa Kỳ gởi Bộ binh và Không quân trực tiếp chiến đấu ở Việt Nam từ năm 1965.
Điểm quan trọng là Hoa Kỳ áp dụng chiến lược phòng thủ ở NVN chứ không đánh ra BVN bằng bộ binh như chiến tranh Triều Tiên. Hoa Kỳ chỉ gởi Không quân tấn công những hậu cứ của CS ở BVN. Cứ thủ mãi và chờ địch quân đến tấn công, đưa đến kết quả là tuy quân đội Hoa Kỳ không thua trận nào, nhưng tử trận mỗi ngày một ít; cộng nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm thành số nhiều. Mỗi ngày vài phi công thuộc Không quân Hoa Kỳ bị bắn rơi ở BVN và bị bắt làm tù binh; cộng nhiều ngày thành số đông.
Các số liệu tử vong và tù binh tăng cao làm cho dân chúng Hoa Kỳ sốt ruột, lo sợ cho sinh mệnh của thân nhân mình, đòi rút quân về nước. Phong trào phản chiến trong nước Hoa Kỳ hoạt động mạnh mẽ, dân chúng, sinh viên biểu tình rầm rộ, làm cho đất nước Hoa Kỳ xáo trộn, khiến chính phủ Hoa Kỳ phải kiếm cách ổn định tình hình nội bộ. (Chú ý: lúc đó quân đội Hoa Kỳ còn gồm thành phần động viên. Luật động viên Hoa Kỳ bị bãi bỏ năm 1973, sau Hiệp định Paris. Ngày nay, quân đội Hoa Kỳ gồm toàn quân nhân chuyên nghiệp.) Hơn nữa, thông qua chiến tranh Việt Nam, Hoa Kỳ bắt tay với Trung Cộng và đang muốn tách Trung Cộng ra khỏi khối CS do Liên Xô lãnh đạo. Chính phủ Hoa Kỳ liền thay đổi chiến lược, rút quân khỏi Việt Nam và kiếm cách ký hiệp định hòa bình để lấy lại tù binh.
Từ đó, Hoa Kỳ mở đường hòa đàm với BVN và đi đến hội nghị Paris. Chính phủ NVN với kinh nghiệm ê chề năm 1945 và 1954, không chịu nhượng bộ BVN, không chịu ngồi vào bàn Hội nghị Paris, nhưng Hoa Kỳ áp lực, rút quân, giảm viện trợ, nên NVN đành phải chấp nhận. Sau những cuộc thảo luận gay go kéo dài từ năm 1968 đến cuối năm 1972, cuối cùng, ngày 27-1-1973, Hiệp định Paris tức Hiệp định chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam (Agreement on Ending the War and Restoring Peace in Vietnam), còn được gọi là Hiệp định Hòa bình Paris (Paris Peace Accords) được ký kết tại nơi bắt đầu, tức Trung Tâm Hội Thảo Quốc Tế (Centre de Conférences International), trong khách sạn Majestic, số 19 đường Kléber, Paris.
Hiệp định gồm 9 chương, 23 điều, có hai bản. Bản thứ nhứt giữa bốn bên VNCH, Hoa Kỳ và CHMNVN, VNDCCH. Bản thứ hai giữa hai bên Hoa Kỳ và VNDCCH. Hai bản chỉ khác nhau ở phần mở đầu và điều 23, còn giống nhau từ điều 1 đến điều 22. Vì có hai bản, nên hiệp định Paris được ký kết hai lần. Lần bốn bên VNCH, Hoa Kỳ, VNDCCH và CHMNVN ký kết vào buổi sáng 27-1-1973. Lần hai bên Hoa Kỳ và VNDCCH ký kết vào buổi chiều 27-1-1973. Hiệp định có hiệu lực từ 0 G. giờ quốc tế GMT đêm 27 rạng 28-1-1973, tức 8 giờ sáng giờ Việt Nam ngày 28-1-1973.
Những điểm chính của hiệp định Paris là: Ngưng bắn trên toàn lãnh thổ Việt Nam; Hoa Kỳ rút quân đội và cố vấn còn lại (khoảng 23,700) trong 60 ngày; Hoa Kỳ triệt phá tất cả các căn cứ trong 60 ngày; trao trả tù binh Hoa Kỳ và các tù binh khác trong 60 ngày; quân đội Bắc Việt tiếp tục đóng giữ tại chỗ ở Nam Việt Nam; rút tất cả các lực lượng ngoại nhập tại Lào và Cao Miên; cấm lập căn cứ và chuyển quân qua hai nước nầy; duy trì khu phi quân sự tại vĩ tuyến 17 làm ranh giới tạm thời cho đến khi nào thống nhất đất nước bằng một giải pháp hòa bình; thành lập Ủy ban Kiểm soát Quốc tế gồm có người các nước Canada, Hungary, Ba Lan và Indonesia với 1,160 thanh tra kiểm soát việc thi hành hiệp định; Nguyễn Văn Thiệu vẫn là tổng thống miền NVN cho đến khi có bầu cử; BVN tôn trọng quyền tự quyết của dân chúng NVN; không chuyển quân qua khu phi quân sự; không sử dụng võ lực để thống nhất đất nước. (John S. Bowman, The Vietnam War, Day by Day, New York: Maillard Press, 1989, tr. 210.)
Rõ ràng BVN chiếm lợi thế trong hiệp định Paris so với NVN. Trong khi Hoa Kỳ rút quân, triệt phá hết các căn cứ Hoa Kỳ tại NVN, thì quân đội BVN tiếp tục đóng giữ tại chỗ ở NVN. Trong khi đó, BVN bí mật tiếp nhận viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng ở BVN, rồi bí mật chuyển vào NVN qua đường Trường Sơn và ngay cả đường vùng phi quân sự ở vĩ tuyến 17, trắng trợn vi phạm hiệp định Paris. Số viện trợ do Liên Xô và Trung Cộng cho BVN trong thời gian nầy tăng gấp 4 lần so với trước đây. (Henry Kissinger, Years of Renewal, New York: Simon & Schuster, 1999, tr. 481.)
Hiệp định Paris quy định việc thành lập một số cơ chế để thực hiện và theo dõi việc ngừng bắn. Đầu tiên là HỘI ĐỒNG HÒA GIẢI HÒA HỢP DÂN TỘC (National Council of National Reconciliation and Concord). Điều 12 chương IV Hiệp định Paris ghi rằng “hai bên miền Nam Việt Nam sẽ hiệp thương trên tinh thần hòa giải và hòa hợp dân tộc, tôn trọng lẫn nhau và không thôn tính nhau để thành lập Hội đồng quốc gia hòa giải và hòa hợp dân tộc gồm ba thành phần ngang nhau. Hội đồng sẽ làm việc theo nguyên tắc nhất trí.” Danh xưng rõ ràng là “Hòa giải hòa hợp dân tộc”, nhưng thực chất là HGHH theo kiểu CS.
Ba thành phần nêu trên đây là VNCH, Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng (MTDTGP) và lực lượng thứ ba. Lực lượng thứ ba được gọi là trung lập, không theo VNCH cũng không theo MTDT. Trong thực tế, lực lượng thứ ba do CSVN ngấm ngầm tổ chức và điều động, gồm những nhà hoạt động chính trị đòi hỏi hòa bình, dân chủ mà không nhất thiết phải tán thành chủ nghĩa CS hay chủ nghĩa xã hội, nhằm cô lập chính phủ VNCH. Cách quyết định theo nguyên tắc nhất trí, có nghĩa là cả ba bên phải cùng đồng ý mới thông qua một quyết định. Nói cách khác, mỗi bên đều có quyền phủ quyết. Vậy làm sao hòa giải hòa hợp, vì ai không bằng lòng thì phủ quyết, thế là đường ai nầy đi.
Cũng theo điều 12 nầy, HĐHGHHDT sẽ đứng ra tổ chức tổng tuyển cử nhằm bầu chọn cơ quan quyền lực cho NVN. Tuy nhiên, vì chính phủ Hoa Kỳ nôn nóng rút quân, rút tù binh nên ký hiệp định Paris, chịu để cho BVN đóng quân ở lại NVN, nên BVN tiếp tục tấn công NVN, và chiến tranh vẫn tiếp diễn. Cho đến ngày 30-4-1945, BVN cưỡng chiếm NVN, HĐHGHHDT cũng chưa thành lập được.
Như thế, chuyện hòa giải hòa hợp theo điều 12 chương IV Hiệp định Paris chỉ là một cái bánh vẽ cho Hoa Kỳ rút quân, vì trong thực tế, sau HĐHGHHDT, Hiệp định Paris còn thành lập, theo điều 18 chương VI, Ủy ban Quốc tế Kiểm soát và Giám sát (International Commission for Control and Supervision), gồm đại diện bốn quốc gia Canada (Gia Nã Đại), Hungary (Hung Gia Lợi), Indonesia (Nam Dương), Poland (Ba Lan). Ủy ban nầy cũng chẳng làm được việc gì vì thiếu sự hợp tác về phía CSVN.
Trong khi Ủy ban QTKSGS tự do đi lại trong vùng do chính quyền NVN kiểm soát, thì Ủy ban bị ngăn cản khi đi vào những vùng CS hoạt động. Ngày 7-4-1973, hai trực thăng của Ủy ban chở nhân viên đến Khe Sanh và Lao Bảo để quan sát và kiểm soát sự xâm nhập của CS theo đường Trường Sơn, liền bị quân CS bắn rơi một chiếc, gây tử thương cho phi hành đoàn và 7 nhân viên. Các chuyến bay ở Lộc Ninh cũng bị quân CS hăm dọa. Sau khi một nhân viên Canada bị CSVN bắt giữ, phái đoàn Canada rút lui vào cuối tháng 7-1973, Iran (Ba Tư) được cử thay thế. Tuy Ủy ban tiếp tục hoạt động cho đến năm 1975, nhưng hoàn toàn bất lực. (Webster’s New World Dictionary of the Vietnam War, tt.. 180-181.)
KẾT LUẬN
Sau cuộc hòa giải nội bộ năm 1945, người Việt theo chủ nghĩa dân tộc có được kinh nghiệm ê chề với CSVN. Trong hai giai đoạn 1954 và 1973, người Pháp rồi người Hoa Kỳ, do chủ tâm rời bỏ Việt Nam, nên dễ dàng thỏa mãn những yêu sách của CSVN để CSVN nhanh chóng ký kết hiệp định giúp hai nước nầy ra đi cho rồi, trong khi đối với CSVN, ngưng chiến chỉ là những giờ giải lao và các hiệp định đó chẳng qua chỉ là những tờ giấy loại bị CSVN xé bỏ dễ dàng. Năm 1954, CSVN ký Hiệp định Genève để dưỡng sức chuẩn bị tiếp chiến tranh. Năm 1973, CSVN ký Hiệp định Paris để Hoa Kỳ rút quân, bỏ rơi và ngưng viện trợ cho NVN, rồi CSVN nhận thêm quân viện của Liên Xô và Trung Cộng, tiếp tục tấn công và đánh chiếm NVN năm 1975.
Với những kinh nghiệm lịch sử như thế, bằng những hiệp định quốc tế, CSVN ký, nhiều nước ký và nhiều nước làm chứng, mà CSVN vẫn vi phạm trắng trợn, xé bỏ dễ dàng, thì còn ai dám tin CSVN và hòa giải hòa hợp với CSVN?
TRẦN GIA PHỤNG
(Toronto,24-05-2015)
nguồn
Chân thành hòa hợp dân tộc, vì một nước Việt Nam giàu mạnh.
(Vivi: Hòa hợp dân tộc man rợ ? đọc sẽ thấy.)
Thứ năm, 30/04/2015, 10:43 (GMT+7)
Sáng 30/4, tại Lễ kỷ niệm 30/4, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có bài phát biểu quan trọng, trong đó Thủ tướng kêu gọi người Việt Nam nêu cao tinh thần dân tộc, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, tất cả vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh…Chúng tôi xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.
Thưa các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam,
Thưa các đồng chí Lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân,
Thưa các vị khách quốc tế,
Thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Hôm nay, trong không khí hào hùng của những ngày tháng Tư lịch sử, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phấn khởi, tự hào tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước.
Thay mặt lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tôi thân ái gửi tới các đồng chí Lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng lực lượng vũ trang; Cán bộ chiến sĩ Quân đội Nhân dân, Công an Nhân dân; các vị khách quốc tế, quý vị đại biểu và đồng bào, đồng chí trong cả nước lời thăm hỏi thân thiết và lời chúc tốt đẹp nhất.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đọc diễn văn tại đại lễ kỷ niệm 30/4
Thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một trang sử hào hùng trong lịch sử dựng nước và giữ nước vĩ đại của dân tộc ta. Chúng ta đã hoàn thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang là giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đưa nước ta bước vào kỷ nguyên mới – kỷ nguyên của độc lập, thống nhất và cùng nhau xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa – dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong thời khắc thiêng liêng, xúc động này, Đảng, Nhà nước, toàn dân, toàn quân ta thành kính tưởng nhớ và đời đời biết ơn Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại – Lãnh tụ thiên tài, Anh hùng giải phóng dân tộc, Danh nhân văn hóa thế giới – Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, non sông đất nước ta.
Chúng ta mãi mãi tưởng nhớ và tri ân các nhà Lãnh đạo tiền bối kiệt xuất của Đảng – của dân tộc; các anh hùng liệt sĩ và đồng chí, đồng bào ta đã anh dũng hy sinh, cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do và thống nhất đất nước.
Chúng ta luôn ghi nhớ và biết ơn các đồng chí Lão thành cách mạng, các Mẹ Việt Nam Anh hùng, các Anh hùng lực lượng vũ trang, các thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ, gia đình có công với nước, các cựu chiến binh, cựu thanh niên xung phong, dân công hỏa tuyến cùng đồng bào, đồng chí trên mọi miền đất nước, đồng bào ta ở nước ngoài đã cống hiến máu xương, trí tuệ, tài năng, công sức, của cải cho cuộc kháng chiến cứu nước vĩ đại.
Tại buổi Lễ trọng thể này, một lần nữa chúng ta chân thành cảm ơn các nước xã hội chủ nghĩa nhất là Liên Xô, Trung Quốc; các Chính phủ, các phong trào, các tổ chức và nhân dân yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới đã nhiệt thành ủng hộ, dành những tình cảm và sự giúp đỡ quý báu cả về tinh thần, vật chất cho cuộc đấu tranh chính nghĩa, giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước của Việt Nam chúng ta.
Thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Sau khi kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, nhân dân Việt Nam có quyền thực hiện khát vọng thiêng liêng của mình là được sống trong một đất nước hòa bình, thống nhất, độc lập, tự do, hạnh phúc và có quan hệ bình đẳng, hữu nghị với tất cả các quốc gia trên thế giới. Nhưng Đế quốc Mỹ đã ngang nhiên áp đặt chế độ thực dân kiểu mới, biến miền Nam Việt Nam thành căn cứ quân sự của Mỹ, đàn áp tàn bạo Cách mạng miền Nam và tiến hành chiến tranh phá hoại khốc liệt ở miền Bắc. Chúng đã gây ra biết bao tội ác dã man, biết bao đau thương, mất mát đối với đồng bào ta, đất nước ta. Tổ quốc ta đã phải trải qua những thử thách cực kỳ nghiêm trọng.
Song, nhân dân Việt Nam quyết không sợ. Không có gì quí hơn độc lập tự do. Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mệnh lệnh thiêng liêng của lý trí và trái tim của mỗi người Việt Nam.
Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ kính yêu, quân và dân cả nước đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, kiên cường, sáng tạo, anh dũng chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt, đánh cho Mỹ cút, đánh cho Ngụy nhào mà đỉnh cao là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, kết thúc bằng sự toàn thắng của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, Bắc – Nam sum họp một nhà. Đồng bào ta tràn ngập niềm vui trong Ngày đại thắng. Thắng lợi vĩ đại này đã làm nức lòng bè bạn gần xa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới.

Quân và dân ta đã vượt qua muôn vàn khó khăn, anh dũng chiến đấu, hy sinh, lập nên những chiến công oanh liệt
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước là thắng lợi của lòng yêu nước nồng nàn – của khát vọng hòa bình, độc lập, tự do và thống nhất đất nước của đồng bào ta; của đường lối và nghệ thuật quân sự Việt Nam dưới sự lãnh đạo đúng đắn, tài tình, sáng tạo của Đảng ta; của sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; của lòng trung thành tuyệt đối và tinh thần quyết chiến, quyết thắng của các Lực lượng vũ trang nhân dân với tài chỉ huy thao lược của các vị Tướng lĩnh tài ba; của tình hữu nghị và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả của bạn bè quốc tế; của liên minh chiến đấu kề vai sát cánh chống kẻ thù chung của nhân dân ba nước Việt Nam, Lào, Cam-pu-chia.
Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước có ý nghĩa lịch sử trọng đại. Báo cáo Chính trị do đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn trình bày tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng ngày 14-12-1976 đã khẳng định “Năm tháng sẽ trôi qua, nhưng thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời về sự toàn thắng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trí tuệ con người, và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện có tầm quan trọng quốc tế to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.
Thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, đất nước ta đứng trước muôn vàn khó khăn thách thức. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và sự đoàn kết nhất trí, nỗ lực phấn đấu của toàn dân, toàn quân, chúng ta đã tập trung sức khắc phục hậu quả nặng nề của chiến tranh, phá thế bao vây cấm vận, anh dũng kiên cường chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc, biên giới phía Tây Nam, giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng và tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Nước ta đã thoát khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Tăng trưởng kinh tế bình quân đạt gần 7%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, công nghiệp và dịch vụ đã chiếm 83% trong tổng GDP. Quy mô và tiềm lực của nền kinh tế không ngừng tăng lên; GDP tăng gấp gần 7 lần và kim ngạch xuất khẩu tăng gấp hơn 200 lần. GDP bình quân đầu người năm 2015 đạt khoảng 2.200 USD. Kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội phát triển khá nhanh với nhiều công trình hiện đại, tạo diện mạo mới cho đất nước.
Tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hóa và công cuộc xây dựng nông thôn mới đạt được nhiều kết quả tích cực. An sinh xã hội cơ bản được bảo đảm, phúc lợi xã hội và đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt. Tỉ lệ hộ nghèo giảm mạnh, còn dưới 6%. Đã có hơn 98% số hộ gia đình được sử dụng điện lưới quốc gia. Tuổi thọ trung bình tăng từ 64,8 tuổi năm 1986 lên khoảng 73,5 tuổi năm 2015. Đã hoàn thành trước thời hạn nhiều Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc.
Quốc phòng an ninh được tăng cường, chủ quyền quốc gia được giữ vững. Công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế được chủ động đẩy mạnh và đạt nhiều kết quả tích cực. Đến nay nước ta đã có quan hệ ngoại giao, thương mại và đầu tư với hầu hết các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới; hiện có hơn 18.200 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài với tổng số vốn đăng ký 256 tỷ USD. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao. Chúng ta chân thành cảm ơn và mong muốn tiếp tục nhận được sự ủng hộ, giúp đỡ và hợp tác hiệu quả của cộng đồng quốc tế.
Công tác xây dựng Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền, xây dựng hệ thống chính trị được đẩy mạnh và dân chủ xã hội chủ nghĩa ngày càng được phát huy. Khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường.
Trong những năm vừa qua, trước tác động tiêu cực của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, chúng ta đã thực hiện được mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý và bảo đảm an sinh xã hội.
Thành tựu đạt được trên các lĩnh vực trong 40 năm qua đã tạo cơ sở và tiền đề quan trọng, quý báu để nước ta tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn nữa trong giai đoạn mới.
Bên cạnh những thành tựu và tiến bộ đạt được, chúng ta cũng nghiêm túc nhìn nhận: Kinh tế – xã hội phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Việc tạo nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa đáp ứng yêu cầu. Chất lượng tăng trưởng, môi trường kinh doanh và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ cho phát triển kinh tế – xã hội. Chất lượng nguồn nhân lực và kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội vẫn chưa đáp ứng kịp yêu cầu.
Khoảng cách về trình độ phát triển kinh tế so với nhiều nước trong khu vực chậm được thu hẹp. Văn hoá, xã hội, bảo vệ môi trường nhiều mặt còn yếu kém, khắc phục còn chậm. Khoảng cách giàu nghèo còn lớn. Hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo và quản lý kinh tế – xã hội nhiều mặt còn hạn chế. Hệ thống chính trị đổi mới chưa đồng bộ, năng lực và hiệu quả hoạt động chưa ngang tầm nhiệm vụ. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa của chúng ta còn nhiều khó khăn, thách thức.

Thủ tướng kêu gọi nhân dân Việt Nam cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân
Thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Trong giai đoạn phát triển mới, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đặt ra là rất nặng nề, đan xen cả thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức. Phát huy tinh thần của Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta nguyện cùng nhau chung sức, đồng lòng, nỗ lực phấn đấu tranh thủ thời cơ – thuận lợi, vượt qua khó khăn – thách thức, thực hiện bằng được mong ước của Bác Hồ kính yêu xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn – một nước Việt Nam thống nhất, xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh và kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ – xứng đáng với sự hy sinh to lớn, cao cả của đồng chí, đồng bào, của các anh hùng liệt sỹ.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân – mỗi người chúng ta hãy cùng nhau phát huy cao độ tinh thần yêu nước; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; tăng cường sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh; bảo đảm ổn định chính trị – xã hội; phát triển kinh tế – xã hội nhanh và bền vững; tạo nền tảng ngày càng vững chắc để sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế và vận hành hiệu quả nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Đẩy mạnh thực hiện ba đột phá chiến lược gắn với cơ cấu lại nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh. Huy động và sử dụng hiệu quả cao nhất các nguồn lực trong và ngoài nước. Phát triển mạnh doanh nghiệp Việt Nam. Tạo mọi thuận lợi để người dân tự do, sáng tạo phát triển sản xuất kinh doanh. Nâng cao tính tự chủ của nền kinh tế.
Phát triển kinh tế gắn kết chặt chẽ với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, phát triển văn hoá, bảo vệ môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu và đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới. Bảo đảm an sinh xã hội, không ngừng nâng cao phúc lợi xã hội và đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Thực hiện tốt chính sách đối với người có công với nước.
Xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thực sự là đạo đức, là văn minh như tâm nguyện của Bác Hồ. Nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và đổi mới phương thức lãnh đạo – cầm quyền của Đảng. Tiếp tục hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và phát huy mạnh mẽ quyền dân chủ, tự do của người dân. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, trách nhiệm, lấy phục vụ người dân, doanh nghiệp và lợi ích quốc gia là mục tiêu cao nhất.
Phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu và đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ đảng viên; giữ vững và tăng cường niềm tin trong nhân dân, củng cố mối quan hệ mật thiết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, giữa nhân dân với Đảng vì đây là cội nguồn sức mạnh của Đảng ta. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các Đoàn thể nhân dân.
Tăng cường quốc phòng, an ninh. Bảo đảm chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và trật tự, an toàn xã hội. Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân và thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững mạnh.
Thực hiện hiệu quả đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Tạo môi trường và điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Với truyền thống hòa hiếu của dân tộc Việt Nam, chúng ta nhất quán thực hiện chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai – Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế; hợp tác bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc; tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.
Thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết – Thành công, thành công, đại thành công, đồng bào ta ở trong nước cũng như ở nước ngoài, mỗi người chúng ta hãy nêu cao tinh thần dân tộc, lòng yêu nước thương nòi, truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, không phân biệt quá khứ, vượt lên trên những khác biệt, cùng nhau chân thành hòa hợp dân tộc, vun đắp và phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, tất cả vì một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh như mong muốn cuối cùng trong Di chúc thiêng liêng của Bác Hồ kính yêu.
Thưa đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu,
Hôm nay, kỷ niệm 40 năm Ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước cũng là dịp chào mừng Ngày quốc tế Lao động 1-5, chúng ta chân thành cảm ơn và bày tỏ tình đoàn kết với Người lao động trên toàn thế giới đã ủng hộ, giúp đỡ Việt Nam và đang đấu tranh vì hòa bình, phát triển, công bằng và tiến bộ trên thế giới.
Chúng ta nhiệt liệt chúc mừng, biểu dương, tôn vinh tất cả những Người lao động đang hăng say làm việc, cống hiến trong các lĩnh vực, trên mọi miền của đất nước và những cán bộ, chiến sĩ đang ngày đêm bảo vệ biên cương, hải đảo của Tổ quốc và cuộc sống bình yên của nhân dân.
Đảng, Nhà nước, nhân dân ta đặt trọn niềm tin và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để thế hệ trẻ Việt Nam nuôi dưỡng ước mơ, hoài bão, xung kích, sáng tạo; làm chủ khoa học, công nghệ hiện đại; không ngừng phát triển văn hóa, nâng cao đạo đức, lối sống; kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng vẻ vang của các thế hệ cha anh, đi đầu trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, đưa dân tộc ta – đất nước ta tiến cùng thời đại.
Năm 2015, Việt Nam có nhiều ngày Lễ lớn và sự kiện quan trọng. Phát huy truyền thống vẻ vang của dân tộc ta, của Đảng ta, của các Lực lượng vũ trang nhân dân anh hùng và tinh thần Đại thắng Mùa Xuân năm 1975, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nỗ lực thực hiện đạt kết quả cao nhất kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội 5 năm 2011 – 2015 và tổ chức thành công Đại hội Đảng các cấp, Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng. Phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trọng đại – vinh quang trong giai đoạn phát triển mới mà Cương lĩnh của Đảng và Hiến pháp đã đề ra.
Tinh thần Đại thắng Mùa Xuân năm 1975 bất diệt
Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh muôn năm
Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam muôn năm
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta
Xin chúc đồng bào, đồng chí và quý vị đại biểu sức khỏe, hạnh phúc, thành công.
Xin trân trọng cảm ơn.
nguồn
Giam lỏng những người đi viếng mộ các chiến sĩ VNCH,
“hoà hợp hoà giải” chỉ là trò hề.
Ảnh: FB Phạm Thanh Nghiên
Mọi người thắp hương tưởng niệm các chiến sĩ VNCH trong sự rình rập, giám sát của cả an ninh thường phục lẫn sắc phục.
Ảnh Facebook Nguyễn Hoàng Vi
Hơn một giờ đồng hồ sau, blogger Nguyễn Hoàng Vi và chị Trần Thu Nguyệt đã tự ra mở cổng, liền bị hàng chục công an, côn đồ xông vào ngăn cản, xô đẩy. Phía công an huy động lực lượng ngày càng đông đến bao vây khu nghĩa trang.
Ký giả Trương Minh Đức yêu cầu gặp người chỉ huy của toán công an, yêu cầu mở cửa cho đoàn thăm viếng mộ ra về. Một người mặc thường phục, tự xưng là trưởng ban QLNT nói rằng “chúng tôi muốn biết các anh chị chụp hình với băng rôn khẩu hiệu gì?”. Ông Đức trả lời nói rằng mọi người dân đều có quyền đi thăm viếng mộ những người đã nằm xuống. Chính việc ngăn cản của công an đã vi phạm pháp luật. Ông cũng thẳng thắn nói cho công an biết nội dung của các băng rôn, khẩu hiệu là khẳng định chủ quyền biển đảo của Tổ quốc, tri ân 74 vị anh hùng VNCH đã vị quốc vong thân để bảo vệ Hoàng Sa 43 năm về trước.
Thứ nhất: chúng tôi đến nghĩa trang thăm viếng, dâng hương là thể hiện tấm lòng của mình với những người đã khuất. Việc làm này mang tính nhân văn và không hề vi phạm pháp luật Việt Nam.
Thái độ thù hằn dành cho chúng tôi và hành động giữ người trái luật của họ sáng nay đã gửi ra một thông điệp rõ ràng là không hoà giải gì cả. Điều này thật đáng tiếc và tôi vô cùng thất vọng trước chính sách hai mặt này của các nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam”.
Đây không phải lần đầu tiên người dân đi thăm viếng nghĩa trang các chiến sĩ VNCH bị nhà cầm quyền ngăn cản và gây khó khăn. Sự việc này, chắc hẳn không phải lần cuối cùng. Chừng nào cộng sản VN còn cầm quyền, chừng ấy sự hằn thù do chính những người cộng sản chủ trương sẽ được duy trì, nói gì đến thì “hoà hợp, hoà giải Dân tộc.”
danlambaovn.blogspot.com
nguon