Vĩ tuyến 17
Ngày 20 tháng 7 năm 1954, Hiệp Định Genève về Việt Nam đã được ký kết. Vĩ tuyến 17 đã là ranh giới chia đôi hai miền đất nước. Gần một triệu người miền Bắc đã rời bỏ quê hương di cư vào Nam. “Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng biện pháp chia đôi lãnh thổ sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh khác…”. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam và Hoa Kỳ đã không ký tên vào bản Hiệp Định Genève chia đôi đất nước. Một nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng dân tộc Việt Nam không thể nào quên được cái ngày đau thương khi giang san một giải đã bị chia cắt bởi dã tâm của thực dân và cộng sản.
Không có tham vọng viết sử, tiểu luận này chỉ nhằm nhắc lại những biến cố, những hậu quả của việc chia đôi đất nuớc hầu đáp ứng phần nào nhu cầu tìm hiểu về một quá khứ gây nhiều ẩn ức của các thế hệ trẻ ngày nay. Tiến bộ khoa học cộng với thời gian đủ dài để ta có thể phóng tầm nhìn tìm về hoàn cảnh Việt Nam sau Thế Chiến Thứ Hai, về cuộc Chiến Tranh Đông Dương (1946-1954) với trận đánh Điện Biên Phủ, về Hội Nghị Genève và bản Hiệp Định đình chiến ngày 20/07/1954, về cuộc Di Cư vĩ đại của đồng bào miền Bắc vào Nam, về những vết thương hằn sâu trên da thịt dân tộc Việt Nam gây ra bởi giòng sông Bến Hải…
Việt Nam sau Đệ nhị thế chiến
Thực dân Pháp đã có mưu đồ xâm lược nước ta từ cuối thế kỷ thứ 18 khi Gia Long đưa Hoàng Tử Cảnh sang Pháp làm con tin để cầu viện giúp mình đánh nhà Tây Sơn. Mưu đồ này đã được thực hiện bằng đường lối ngoại giao và nhất là quân sự. Chúng sử dụng chiến thuyền bắn phá cửa biển Đà Nẵng (1847), chiếm hết 6 tỉnh Nam Kỳ (1859-1867) rồi đánh ra miền Bắc. Hòa ước năm Giáp Thân (1884) hay còn gọi là hòa ước Patenôtre đã biến Việt Nam thành thuộc địa của Pháp. Từ đó, Pháp đã coi Việt Nam, gồm cả 3 kỳ và hai nước láng giềng là Ai Lao và Cao Miên là Đông Dương thuộc Pháp (Indochine Française). Nước ta hoàn toàn mất độc lập chủ quyền. Triều đình chỉ làm vì, mọi việc hành chánh, kinh tế, ngoại giao đều do người Pháp làm chủ.
Từ khi thực dân Pháp khởi sự đánh chiếm nước ta và suốt trong thời kỳ đất nước mất vào tay người Pháp, nhân dân ta luôn luôn tìm cách khởi nghĩa kháng Pháp. Từ vua quan trong triều đến dân dã khắp nơi, những anh hùng dân tộc như Vua Duy Tân, vua Thành Thái, như Trương Công Định, Phan Đình Phùng, Nguyễn Tri Phương, Hoàng Hoa Thám, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Đốc Binh Kiều vv… đã tổ chức những cuộc khởi nghĩa võ trang đánh đuổi thực dân. Những nhà ái quốc như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Phạm Hồng Thái, Nguyễn Thái Học và bao nhiêu người khác đã nổi lên đấu tranh giành độc lập. Tình thế chỉ tạm yên vào khoảng năm 1935.
Từ năm 1933, tình hình thế giới sau Đệ nhất thế chiến (1914-1918), hai cường quốc Âu Châu là Pháp và Anh tỏ vẻ mệt mỏi, nhất là Pháp còn lúng túng về chính trị trong các công cuộc xây dựng lại. Lúc đó, Hitler (Đức), Mussolini (Ý) và Nhật Bản đã ký thỏa ước 3 bên (25/11/1933) lập thành lực lượng “Trục”. Bắt chước Hitler vẫn coi Áo và Ba Lan thuộc Đức, Mussolini coi Ethiopia và Libya thuộc Ý, quân đội Nhật đã tiến chiếm Mãn Châu vào ngày 7/7/1937.
Cuộc chiến tranh thế giới lần thứ nhì đã chính thức bắt đầu vào ngày 1/9/1939 tại Âu Châu. Từ Tiệp Khắc, quân đội Đức Quốc Xã của Hitler đã xua quân vào Ba Lan trước hết rồi đồng loạt tấn công các nước các nước trên chiến trường phía Đông nước Đức. Đến năm 1940, Hitler mở mặt trận phía tây. Quân đội Đức nhảy dù xuống Hòa Lan và Bỉ (10/05/1940), đồng thời dội bom xuống các thành phố phía Bắc nước Pháp giáp giới với Bỉ. Sau 18 ngày đêm cầm cự, vua Léopold của Bỉ đã phải đầu hàng vào ngày 28/05/40. Thanh toán được Bỉ, quân Đức tiến xuống phía Nam và đánh vào nước Pháp. Paris bị dội bom. Trong lúc Mussolini tuyên chiến với Pháp. Pháp bị lưỡng đầu thọ địch. Chính phủ Pháp lúc đó do thống tướng Pétain cầm đầu đã tuyên bố ngưng bắn vào lúc nửa đêm ngày 17/06/40. Nước Pháp đã lọt vào tay của Đức. Chính phủ Pétain rút về đóng tại Vichy và có chính sách cộng tác với kẻ xâm lược. De Gaulle bay sang Anh và hô hào kháng chiến, kêu gọi người Pháp vượt biển qua Anh gia nhập “Lực Lượng Pháp Tự Do”, chiến đấu bên cạnh quân đội Đồng Minh.
Tại Đông Dương, chính quyền bảo hộ nhìn thấy thế lực của Nhật đang tiến đánh Trung Hoa (1937), nên đã phục tòng chính phủ Vichy ở mẫu quốc. Với đường lối này, chính quyền thực dân Pháp ở Đông Dương trở nên đồng minh của lực lượng “Trục”. Sau khi tiến chiếm Hà Nội vào năm 1939 và sau khi Pháp đầu hàng Đức, quân đội Nhật vẫn để chính quyền thực dân tiếp tục cai trị và phải có nghĩa vụ hậu cần cho quân đội Thiên Hoàng. Tình trạng này tiếp tục cho đến năm 1945.
Sau khi quân đội Đồng Minh đổ bộ lên bờ biển Normandie và giải phóng nước Pháp, chính phủ Vichy bị lật đổ và bị bắt, De Gaulle lên nắm chính quyền. Chính quyền thực dân tại Đông Dương quay lại thần phục De Gaulle và vì vậy đã ở thế thù nghịch với quân đội Nhật đang bị thua trận trên chiến trương Thái Bình Dương. Ngày 9/3/45 người Nhật trao tối hậu thư cho toàn quyền Pháp, Decoux, yêu cầu đặt toàn bộ quân đội Pháp tại Đông Dương dưới quyền chỉ huy và điều động của Nhật. Decoux từ chối và đã bị bắt ngay, không kịp ra lệnh cho lực lượng Pháp dưới quyền. Quân đội Nhật bất thần tấn công các doanh trại và cơ sở của chính quyền thuộc địa. Chỉ trong một đêm họ đã thanh toán xong toàn bộ cứ điểm của Pháp, bắt giam tất cả các quan chức Pháp. Sử gia Phan Khoang đã viết : “Sáng ngày 10/3/45 cờ Nhật phất phới từ Nam Quan đến Cà Mâu. Ngày ấy Đại Sứ Yokohama yết kiến vua Bảo Đại ở Điện Kiến Trung, tuyên bố trao trả độc lập cho nước Việt Nam”. Bảo Đại, sau đó đã tuyên bố hủy bỏ tất cả những hiệp ước ký kết với Pháp trước đó và mời nhà trí thức Trần Trọng Kim ra thành lập chính phủ. Tuy “thoát khỏi” ách nô lệ của Pháp, nhưng chính phủ này vẫn phải đi theo đường lối thân Nhật và quân đội Nhật vẫn chiếm đóng trên đất nước ta.
Sự cai trị của Pháp coi như bị gián đoạn. Trong lúc đó đảng Cộng Sản Đông Dương và các đảng phái quốc gia hoạt động ráo riết để giành độc lập. Mặt Trận Việt Minh do cộng sản thành lập đã chiếm ưu thế nên khi Nhật đầu hàng vào tháng 8/45, trong khoảng trống chính trị lúc đó, họ đã huy động được quần chúng Việt Nam nổi lên cướp chính quyền ngày 19/8/45. Hồ Chí Minh đã đọc tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/45 tại Hà Nội, khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Trong buổi lễ Hồ Chí Minh đã tuyên đọc mấy lời thề mà lời thề đầu là “Cương quyết không thương thuyết với Pháp”. Tuy nhiên, tình thế phức tạp lúc đó ở nước ta với sự hiện diện của quân đội Trung Hoa Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch tới tước khí giới quân đội Nhật đã gây bất ổn cho Hồ Chí Minh và đảng cộng sản. Việt Minh rất mong quân đội Trung Hoa sớm rút khỏi Việt Nam. Đồng thời, tham vọng lấy lại thuộc địa của thực dân Pháp cũng khiến họ thương thuyết với Trung Hoa để quân đội của họ có thể thay thế quân đội Trung Hoa ở Việt Nam. Hồ Chí Minh đã thà phản bội lời thề, thương thuyết với Pháp còn hơn bị hại bởi Quốc Dân Đảng Trung Hoa và Việt Nam. Vì thế ông ta đã ký với Sainteny Hiệp Ước Sơ Bộ 6/3/1946 chấp nhận Việt Nam là một nước tự do trong Liên Hiệp Pháp và để quân đội Pháp tiến vào miền Bắc. Tướng Leclerc của Pháp đã dẫn đoàn quân hơn 10.000 bộ binh và trên 100 chiến xa đổ bộ tại Hải Phòng. Cũng nên nhắc là theo tinh thần Hiệp Định Sơ Bộ 6/3/46 quân đội Pháp với 15.000 quân hợp tác với 10.000 quân Việt Nam (Việt Minh) để giữ an ninh trên lãnh thổ miền Bắc. Việt Minh có sự cam kết của Pháp là sẽ không can thiệp vào những vụ xung đột giữa Việt Minh và các đảng phái quốc gia, nên đã rảnh tay tấn công vào trụ sở Việt Nam Quốc Dân Đảng (VNQDĐ) tại Hà Nội và các chiến khu của VNQDĐ tại các tỉnh ở miền Bắc.
Nhưng ý đồ giành lại thuộc địa của Pháp rất là mạnh mẽ trong giới cầm quyền ở Pháp, đặc biệt là De Gaulle. Quân đội Pháp đã mang quân tiến chiếm tất cả những công thự và cơ quan của Pháp trước kia. Thái độ khiêu khích ngày càng gia tăng và cuộc chiến đã bùng nổ ở nhiều thành phố, đặc biệt là Hải Phòng, Bắc Ninh. Ngày 19/12/1946, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Những năm đầu, Việt Minh rất yếu thế : vừa đánh vừa xây dựng lực lượng. Chiến thuật họ thường dùng là chiến tranh du kích mà họ học được của Mao Trạch Đông với phương châm “tứ khoái, nhất mãn”. Về chiến lược, họ chủ trương trường kỳ kháng chiến, tiêu hao địch. Hậu cần họ lấy tại chỗ, trong nhân dân. Vì vậy quân đội viễn chinh của Pháp phải ngày đêm đi càn quét, đi lùng địch mà không phát hiện. Về vũ khí, Việt Minh chủ yếu chỉ có súng nhẹ. Vũ khí cộng đồng thường là đại liên, trung liên, súng cối 60 ly, súng cối 81 ly. Chủ yếu, lúc đầu là những vũ khí cũ của Pháp, Mỹ, Anh, Nhật để lại sau Đệ Nhị Thế Chiến. Nhiều nơi còn dùng gậy gộc, giáo mác, tầm vông vạc nhọn. Họ có lập ra một vài “công binh xưởng” để chế tạo lựu đạn nội hóa, bom ba càng và một số mìn bẫy. Từ năm 1950, tức là sau khi Mao Trạch Đông chiếm được toàn bộ Trung Quốc, hỏa lực và quân số của Việt Minh mới phát triển. Họ đã thành lập được những đơn vị cấp trung đoàn rồi “đại đoàn” (tương đương sư đoàn hiện nay). Súng ống họ đã có phòng không, đại bác không dật (DKZ) và pháo binh gồm 105 và sơn pháo 75 ly. Vũ khí và quân trang, quân dụng đã do đàn anh Trung Cộng tiếp tế qua biên giới phí bắc. Những năm cuối của trận đánh, Việt Minh đã phản công và quân chính quy chấp nhận trận địa chiến với Pháp, trong lúc, quân địa phương và dân quân, tự vệ của họ tiếp tục đánh du kích. Kết quả là hệ thống đồn bót của quân đội Pháp bị cô lập.
Nhận thấy tự mình tiến hành một cuộc chiến tranh vũ trang không kham nổi, Pháp đã phải nhờ tới ông Bảo Đại. Họ cam kết công nhận nền độc lập của Việt Nam không cộng sản do Bảo Đại làm quốc trưởng của “Quốc Gia Việt Nam”. Những người không chấp nhận chủ nghĩa cộng sản, những người từng là nạn nhân của cộng sản vô thần đã lần lượt quy thuận Quốc Gia Việt Nam. Quân Đội Việt Nam được hình thành và chiến đấu bên cạnh quân đội Pháp.
Cuộc chiến kéo dài đến tháng 7/1954. Sự tính toán chủ quan, sai lầm của tướng lãnh Pháp đã dẫn đến việc dồn quân vào thung lũng Điện Biên Phủ, xa mọi hậu cứ tiếp vận, tạo cơ hội cho Việt Minh tổ chức trận địa tiến hành một trận đánh lớn dẫn đến sự thất thủ của tập đoàn căn cứ Điện Biên Phủ, quân Pháp đầu hàng lúc17 giờ 30 chiều ngày 5/5/1954. Hội nghị Genève về Việt Nam khai mạc ngay ngày hôm sau khi Điện Biên Phủ thất thủ.
Hội nghị và Hiệp định Genève
Trong suốt gần 9 năm chiến tranh Đông Dương, tình hình chính trị ở nước Pháp rất rối ren. Năm 1946 nền Đệ Tứ Cộng Hòa Pháp ra đời với tổng thống Vincent Auriol. Dưới nhiệm kỳ của ông, vừa phải lo chỉnh đốn nền chính trị, hành chánh, kinh tế, xây dựng lại nước Pháp sau chiến tranh, vừa tiến hành một cuộc chiến tranh thu hồi thuộc địa ở Đông Dương cách mẫu quốc hàng chục ngàn cây số. Chính khách Pháp lo tranh giành địa vị. Chỉ trong 9 năm đó đã có 2 đời tổng thống và 17 lần thay đổi chính phủ. Có nhiều chính phủ lên chưa được mấy ngày đã bị lật đổ… Nắm được yếu tố này nên Hồ Chí Minh với sự hỗ trợ của Liên Xô và Trung Cộng đã nắm chắc phần thắng trong tay. Nói cách khác, đây là một trong những yếu tố khiến Pháp bại trận thê thảm ở Đông Dương. Thật sự, người ta đã bỏ rơi những người lính của Pháp đang thi hành nhiệm vụ trên chiến trường Đông Dương.
Trong lúc Điện Biên Phủ thất thủ thì cũng là lúc chính phủ Laniel sụp đổ và người lên thay thế vào ngày 17/6/54 là Mendès France. Ông có một lời hứa “Nếu trong 4 tuần lễ, vào ngày 20/7 tới đây, tôi không đạt được một cuộc ngưng bắn tại Đông Dương, tôi sẽ từ chức”. Thực tình, nếu ông không thành công mà có từ chức thì cũng như 16 ông “chủ tịch hội đồng bộ trưởng” (thủ tướng) tiền nhiệm của ông thôi. Nhưng ý chí quyết liệt thực hiện lời hứa của ông bằng bất cứ giá nào kể cả hy sinh số phận hàng triệu con người thì ngoại trừ đảng viên cộng sản hay xã hội, khó ai làm nổi. Ông thuộc đảng Xã Hội Pháp.
Sau Đệ nhị thế chiến, thế giới, đặc biệt là Á Châu đã là sân khấu của một cuộc chiến tranh khác. Đó là cuộc chiến tranh ý thức hệ giữa chủ nghĩa cộng sản bành trướng do Liên Xô và Trung Cộng thống lãnh và khối các nước dân chủ Tây Phương, đứng đầu là Hoa Kỳ. Hình thức cuộc chiến tranh lạnh là “chiến tranh ủy nhiệm”. Các cường quốc lãnh đạo không trực tiếp đụng độ với nhau, nhưng khơi mào, nuôi dưỡng các cuộc chiến tranh ở những quốc gia nhỏ bé. Cuộc chiến tranh mà cộng sản gọi là “chiến tranh giải phóng” trên chủ trương, phong trào “giải phóng dân tộc” thực chất là chiến tranh bành trướng chủ nghĩa cộng sản. Cuộc chiến tranh tại Việt Nam bùng nổ từ cuối năm 1946 và cuộc chiến tranh Triều Tiên khởi sự vào ngày 25/6/1950. Cả 2 cuộc chiến đều khốc liệt, đều là gánh nặng cho các quốc gia tham chiến. Nhưng thực sự thì khối “thế giới tự do” sốt ruột nhiều hơn với cuộc chiến tranh Triều Tiên vì có nhiều quốc gia Tây Phương tham dự. Sức ép nội bộ của từng quốc gia khiến họ cần phải có một cuộc đàm phán để chấm dứt sự tham chiến của họ. Họ cũng chẳng tha thiết gì đến vấn đề chiến tranh Đông Dương vì chỉ có Pháp liên quan và vì thế Pháp đã tìm đủ cách để đưa vấn đề Việt Nam vào cuộc đàm phán mà họ rất cần. Họ thực sự hết lực theo đuổi và muốn rút ra trong danh dự. Vì thế trong Hội Nghị tứ cường (Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô) ngày 25/1/1954 tại Bá Linh, Pháp đã tìm mọi cách thuyết phục các nước kia đưa vào nghị trình vấn đề “chấm dứt chiến tranh, tái lập hòa bình tại Đông Dương”.
Hội Nghị Genève khai mạc vào ngày 26/4/1954 với sự tham dự của đại biểu 19 quốc gia để bàn về chiến tranh Triều Tiên và chiến tranh Đông Dương. Một ngày bàn về Triều Tiên, một ngày bàn về Việt Nam. Có các phái đoàn cường quốc đứng đầu 2 phe : Phe cộng sản có Liên Xô do Molotov làm trưởng đoàn, Trung Cộng do Chu Ân Lai hướng dẫn. Phe thế giới tự do có Hoa Kỳ với ngoại trưởng John Foster Dulles, Anh Quốc với Anthony Eden và Pháp với Georges Bidault. Các nước liên hệ có phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, Việt Minh, Lào, Cao Miên, Nam Triều Tiên và Bắc Triều Tiên. Sau đây, chỉ nói về các cuộc đàm phán về vấn đề Việt Nam mà thôi.
Hội nghị Genève về Việt Nam chính thức được đẩy mạnh ngay sau khi Điện Biên Phủ thất thủ và đã khai mạc vào ngày 8/5/1954.
Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam gồm có các ông : Nguyễn Quốc Định, ngoại trưởng (chính phủ Bửu Lộc) là trưởng đoàn, Nguyễn Khắc Khê, Trần Văn Tuyên, Trương Văn Chình, Bửu Kính, Đoàn Thuận. Đến ngày 10/5, phó thủ tướng Nguyễn Trung Vinh được cử làm trưởng đoàn và tăng cường thêm ông Nguyễn Duy Thanh.
Phái đoàn Việt Minh có Phạm Văn Đồng là trưởng đoàn và các ông Phan Anh, Trần Công Tường, Hoàng Văn Hoan, Tạ Quang Bửu, Nguyễn Thanh Hà, Hà Văn Lâu, Nguyễn Thanh Sơn, Đặng Tính, Trần Lâm, Hoàng Nguyên, Trần Thanh, Lê Văn Chánh.
Phái đoàn Pháp có ngoại trưởng Bidault. Phái đoàn Anh, có ngoại trưởng Eden. Phái đoàn Mỹ có thứ trưởng ngoại giao Bedell Smith. Phái đoàn Liên Xô có Molotov. Phái đoàn Trung Cộng có Chu Ân Lai. Phái đoàn Lào có Phumi Sananikone. Phái đoàn Cao Miên có Tep Than.
Lúc đầu, nghị trình họp cách ngày và họp công khai, có báo chí tham dự. Mỗi bên lên đọc quan điểm của mình. Sau 4 phiên họp như vậy, tại phiên họp ngày 14/5, Molotov đã thông báo kể từ kỳ họp tới là ngày 17/5 các phiên họp sẽ không công khai và được thu hẹp lại : mỗi phe chỉ có 3 đại biểu. Tại phiên họp ngày 26/5, Pháp và Việt Minh thỏa thuận về ngưng bắn và rút quân về các khu vực ấn định. Việt Minh đề nghị chia đôi lãnh thổ Việt Nam, Pháp rút về phía Nam, Việt Minh rút về phía Bắc. Hội nghị cũng lập ra một tiểu ban quân sự để bàn cụ thể về ngưng bắn và rút quân.
Phía Việt Minh có Tạ Quang Bửu thứ trưởng quốc phòng, Đại tá Hà Văn Lâu và Hoàng Nguyên, thông dịch viên.
Phía Pháp Việt có Tướng Delteil, Đại tá Brébisson…, Đại tá Lê Văn Kim, LS. Trần Văn Tuyên, Đại tá Trần Văn Minh và LS. Bửu Kính. Phiên họp đầu tiên của tiểu ban này diễn ra ngày 2/6. Trên địa thế, đã có những cuộc gặp gỡ, đàm phán về quân sự giữa hai phái đoàn quân sự Việt Minh và Pháp Việt tại Trung Giá.
Trong suốt tiến trình Hội Nghị, Việt Minh luôn đòi chia đôi lãnh thổ. Thoạt đầu, với chiến thắng Điện Biên, họ đòi chia đôi ở vĩ tuyến 13. Phía Pháp đòi vĩ tuyến 18. Phái đoàn Quốc Gia Việt Nam từ đầu luôn chống lại biện pháp chia đôi đất nước. Dưới sức ép của Liên Xô và Trung Cộng, Việt Minh từ bỏ đòi hỏi vĩ tuyến 13 và chấp thuận vĩ tuyến 17. Trưởng phái đoàn Quốc Gia Việt Nam, ông Nguyễn Quốc Định đã tuyên bố ngay : “Tôi để cho phái đoàn Việt Minh trách nhiệm đối với lịch sử… Chia đôi, nghĩa là sớm muộn cũng lại có chiến tranh”.
Trong lúc đang diễn ra Hội Nghị Genève thì tại Việt Nam, Bảo Đại đã mời Ngô Đình Diệm làm thủ tướng. Ngày 7/7/54, ông Diệm thành lập chính phủ và BS. Trần Văn Đỗ làm Bộ Trưởng ngoại giao thay thế Nguyễn Quốc Định. Ông cũng thay ông Định làm trưởng phái đoàn Việt Nam tại Genève. Ông Đỗ khi biết Việt Nam sẽ bị chia đôi, đã đứng lên phản đối, giọng nghẹn ngào vì xúc động trong bầu không khí im phăng phắc của cả Hội Nghị. Biến cố này được nhà báo Pháp Jean Lacouture và LS. Trần Văn Tuyên viết lại.
Nội dung hiệp định Genève về Việt Nam
Hiệp Định Genève về Việt Nam đã được chính thức ký kết vào lúc 3 giờ 50 phút sáng ngày 21/7/1954. Nhưng trên tường, theo đề nghị của Mendès France, đồng hồ vẫn chỉ 12 giờ khuya ngày 20/7 để hắn có thể giữ được lời hứa. Một sự gian lận lịch sử. Một mối nhục cho nước Pháp ngay trong một Hội Nghị quốc tế, tại một quốc gia ngoài lãnh thổ Pháp.
Nội dung Hiệp Định có 47 điều và một phụ lục và được tóm tắt như sau :
Lệnh ngưng bắn có hiệu lực từ ngày 22/7/54 vào lúc 0 giờ, giờ Genève, tức 7 giờ sáng giờ Sài Gòn. Tuy nhiên thời điểm ngưng bắn cụ thể được ấn định tại Bắc Việt lúc 8 giờ sáng ngày 27/7; tại Trung Việt lúc 8 giờ sáng ngày 1/8; và tại Nam Việt lúc 8 giờ sáng ngày 11/8.
Lằn ranh giới tuyến chia đôi Việt Nam là vĩ tuyến thứ 17 Bắc. Cụ thể trên địa thế là từ cửa sông Bến Hải, theo giòng sông đến làng Bồ Hô Su và biên giới Việt-Lào. Hai bên bờ sông, một vùng phi quân sự rộng 5 km là trái độn giữa 2 vùng. Theo Hiệp Định, lằn ranh này chỉ tạm thời và sẽ có cuộc tổng tuyển cử để thống nhất 2 miền vào tháng 7/1956 (thời điểm này chính Pháp đã đơn điệu ấn định không có sự đồng ý của Quốc Gia Việt Nam). Trong thời gian chờ tổng tuyển cử, mỗi bên có quyền quản trị hành chánh ở khu vực của mình.
Cấm phá hủy cơ sở trước khi rút quân; cấm trả thù hoặc ngược đãi những người đã cộng tác với đối phương khi trước; cấm đưa thêm quân đội, vũ khí hoặc lập căn cứ quân sự ở vùng đối phương. Việc giám sát đình chiến được giao cho một Ủy Hội quốc tế gồm Gia Nã Đại, Ba Lan và Ấn Độ. Lúc đầu Việt Minh từ chối và đòi chỉ có Việt Minh và Pháp mà thôi.
Trong vòng 300 ngày dân chúng 2 miền có quyền di chuyển từ vùng này sang vùng khác không bị hạn chế, không bị ngăn cản.
Việt Minh và các trưởng đoàn đại biểu đã ký vào bản Hiệp Định và bản thông cáo chung ngoại trừ phái đoàn Quốc Gia Việt Nam không ký. Phái đoàn Hoa Kỳ cũng không ký.
Cuộc di cư vĩ đại
Tin tức về việc chia đôi đất nước đã là một cú ỀsốcỂ mạnh đối với dân Hà Nội nói riêng và dân chúng toàn miền Bắc nói chung. Thực ra, đối với đồng bào miền Nam và đồng bào cả nuớc chia đôi đất nước là một mối đau của dân tộc. Xưa kia Trịnh Nguyễn phân tranh, lấy sông Gianh làm biên giới đã khiến cho người đời nguyền rủa cho đến ngày nay. Phái đoàn Quốc Gia, ngay sáng ngày 21/7 đã ra một bản tuyên ngôn mang chữ ký của Trưởng phái đoàn, Bs. Trần Văn Đỗ : “long trọng phản đối việc ký kết hấp tấp thỏa hiệp ngưng chiến do hai cơ quan Tư Lệnh Tối Cao Pháp và Việt Minh mà thôi” và “yêu cầu Hội nghị ghi nhận một cách chính thức rằng Việt Nam long trọng phản đối cách ký kết Hiệp Định cùng những điều khoản không tôn trọng nguyện vọng sâu xa của nhân dân Việt Nam”.
Đối với một số dân chúng miền Bắc, không có chuyện ở lại với Việt Minh vì họ đã chống Việt Minh cộng sản hoặc đã làm việc trong bộ máy hành chính của quốc gia tại Hà Nội và các tỉnh lớn. Chính sách trả thù và những hình ảnh đấu tố dã man trong cải cách ruộng đất của Việt Minh đã làm cho họ lo sợ thêm. Bỏ lại tất cả sản nghiệp để di cư vào Nam, dù là chỉ trong vài năm đã là điều trước đây không bao giờ họ nghĩ tới. Nhưng, do Hiệp Định ký kết bởi thực dân và Việt Minh cộng sản, hôm nay, họ chỉ còn 300 ngày để quyết định, để chuẩn bị, để gom góp của cải và bỏ xứ lên đường vào Nam ! Dư luận rất xôn xao. Những người thức thời đã nhanh chân lên đường ngay những tháng sau đó.
Nhìn thấy xu hướng có hàng triệu người sẽ bỏ miền Bắc vào Nam, chính phủ Ngô Đình Diệm đã phải có đối sách khẩn cấp bằng cách ban hành Nghị Định số 111.TTP/VP, thành lập một Tổng Ủy Di Cư. Cơ quan này đầu tiên được giao cho bộ trưởng Nguyễn Văn Thoại làm tổng ủy trưởng và ông Đinh Quang Chiêu làm phụ tá. Ngày 21/8 ông Ngô Ngọc Đối được cử thay thế ông Nguyễn Văn Thoại và đến ngày 4/12 Bs thú y Phạm Văn Huyến được cử thay thế ông Ngô Ngọc Đối.
Cầu không vận do không quân Pháp thiết lập từ ngày 10/8/54 với mỗi ngày khoảng 70 chiếc vận tải cơ Dakota để chuyển vận đồng bào di cư vào Nam. Tại Tân Sơn Nhất, Bộ Xã Hội đón tiếp đồng bào và di chuyển về các trại định cư. Mỗi ngày, vài ngàn đồng bào ở các tỉnh miền Bắc kéo nhau về Hà Nội để được chuyển vận vào Nam. Một số rất đông đã được di chuyển xuống Hải Phòng để được các chiến hạm của Pháp chở bằng đường biển. Với nhịp độ như vậy, trong 10 tháng ngắn ngủi (300 ngày) đã có trên 860.000 người miền Bắc bỏ xứ di cư vào Nam. Những đồng bào di cư gồm những thành phần nào ? Họ gồm các công chức, một số các nhà trí thức đi theo trường mình dạy, thành viên các đảng phái quốc gia, các nhà tư bản, doanh thương và đại đa số đồng bào Công Giáo. Trên con số 860.000 đồng bào di cư thì có đến 650.000 người Công Giáo. Trước Hiệp Định, miền Bắc có gần 1,1 triệu người Công Giáo, nay chỉ còn lại 300.000 người. Hàng giáo phẩm đã có 1.127 vị theo tín đồ di cư, còn lại khoảng 300 người gồm những vị già cả, bệnh tật, không đi nổi. Con số đồng bào di cư còn có thể cao hơn nữa nếu còn thời gian và nếu Việt Minh không ra sức ngăn cản. Nhiều người ở xa Hà Nội và Hải Phòng đã không thể đi được. Việt Minh đã đàn áp dã man những người hô hào, tổ chức đưa đồng bào di cư. Nhiều người đã bị bắt, bị thủ tiêu. Nhất là những đồng bào ở vùng Nghệ Tĩnh (Quỳnh Lưu). Sau khi hết hạn 300 ngày, nhiều người còn tiếp tục vượt biên bằng thuyền bè và đã bị Việt Minh cho thuyền võ trang đuổi theo bắn bỏ. Một số người tìm cách vượt sông Bến Hải cũng bị chúng dùng tên độc bắn trong lúc đang bơi chưa tới bờ phía Nam. Họ dùng tên độc vì trong vùng phi quân sự không được nổ súng. Chưa có ai nghiên cứu để làm bản thống kê những người chết trên đường đi tìm tự do hồi năm 1954.
Đồng bào đã được tạm định cư trong các trại xung quanh Sài Gòn trước khi được đưa đi định cư vĩnh viễn ở các vùng Biên Hòa, Bà Rịa, Vũng Tàu, Ban Mê Thuột, Diling, Blao, Liêng Khàng, Long Khánh, Nha Trang, Cam Ranh, vv… Riêng trên vùng Cao Nguyên Miền Trung, có khoảng 300.000 đồng bào đã được định cư. Sau một thời gian đầu khó khăn, nhưng được sự giúp đỡ tận tình của chính phủ và của quốc tế, nhất là Hoa Kỳ, đồng bào di cư đã ổn định được cuộc sống, làm ăn ngày càng phát đạt tạo thêm phong phú cho nền kinh tế cũng như văn hóa, giáo dục tại miền Nam.
Bức màn tre đã buông xuống. Rất ít tin tức về miền Bắc lọt ra ngoài. Nhưng chắc chắn dân chúng sẽ đói khổ và mất hết quyền tự do căn bản dưới chế độ độc tài cộng sản. Một tài liệu về Nhân Quyền của một cơ quan mang tên MISSIO thuộc Giáo Hội Công Giáo Đức đã làm một cuộc khảo sát về Giáo Hội Miền Bắc và Miền Nam sau Hiệp Định Genève đã ghi những số liệu sau đây : Vào năm 1953, tại miền Nam có 3 trường trung học tư thục Công Giáo. Đến năm 1969 có 226 trường đón nhận 82.927 học sinh Công Giáo và 70.101 học sinh ngoài Công Giáo. Các trường tiểu học tư thục Công Giáo gia tăng, phát triển lên đến con số 1.030 trường vào năm 1969. Mọi giới, mọi ngành trong miền Nam đã phát triển mạnh mẽ.
Quốc hận phân chia đất nước
Cộng sản Việt Nam (CSVN) thường khoe khoang có công giành độc lập cho dân tộc và thống nhất đất nước. Họ dùng hai công trạng này để bắt người dân mang ơn đảng CSVN và biện minh cho sự độc tôn độc tài trên chính quyền tại Việt Nam. Các thế hệ sau có thể không rõ và có thể tin vào luận điệu tuyên truyền này của họ. Phải biết là chính CSVN đã chủ trương và đã đề nghị với quốc tế chia đôi đất nước tại Hội Nghị Genève năm 1954. Họ và thực dân Pháp đã đặt bút ký văn bản quốc sỉ này. Trước đó, CSVN ký kết Hiệp Định Sơ Bộ với Pháp để quân đội Pháp được trở lại miền Bắc. Hồ Chí Minh với tư cách chủ tịch một nước đã đang đêm (2 giờ sáng đêm 13 rạng 14/9/46) gõ cửa Bộ Trưởng thuộc địa Marius Moutet để ký cho bằng được bản “thỏa hiệp quan hệ” (modus vivendi) là một bằng chứng cộng sản không tôn trọng danh dự, quốc thể và độc lập của Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam không thể tha thứ cho CSVN về cái tội chia cắt đất nước. Năm 1954, họ đã cắt một nửa giang sơn dâng cho thực dân Pháp. Hành động này không khác gì trong những năm gần đây, họ cắt đất, cắt biển dâng cho Trung Cộng.
Đúng như trưởng phái đoàn Quốc Gia tham dự hội nghị : “Chấm dứt một cuộc chiến tranh bằng biện pháp chia đôi lãnh thổ sẽ dẫn đến một cuộc chiến tranh khác…”.
Quả vậy, CSVN đã phản bội chữ ký của chính họ mang quân tấn công miền Nam gây ra cuộc chiến tranh Việt Nam với bao tang tóc thê lương. Lịch sử sẽ phán xét tội phản dân hại nước của CSVN.
Trần Đức Tường
NGUYÊN NHÂN CHIẾN TRANH 1960-1975
Trần Gia Phụng
1. NGUYÊN NHÂN BIỂU KIẾN
Theo lời nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), nguyên nhân chính mà VNDCCH đưa quân tấn công Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) từ năm 1960 là vì VNCH không tôn trọng và không thi hành hiệp định Genève ngày 20-7-1954 về việc tổ chức tổng tuyển cử để thống nhất đất nước. Bên cạnh đó, cũng theo quan điểm của nhà nước VNDCCH, người Hoa Kỳ càng ngày có mặt càng nhiều ở VNCH nên dân Việt Nam phải “chống Mỹ cứu nước”.
Quả thật, sau hiệp định Genève đúng một năm, thủ tướng VNDCCH là Phạm Văn Đồng, gởi thư ngày 19-7-1955 lần đầu tiên cho thủ tướng Quốc Gia Việt Nam (QGVN) là Ngô Đình Diệm, yêu cầu mở hội nghị hiệp thương bắt đầu từ ngày 20-7-1955 như đã quy định trong hiệp định Genève ngày 20-7-1954, để bàn về việc tổng tuyển cử nhằm thống nhất đất nước.
Ngày 10-8-1955, Ngô Đình Diệm đã bác bỏ đề nghị của Phạm Văn Đồng, dựa vào lý do rằng chính phủ QGVN không ký vào hiệp định Genève và nhất là vì không có bằng chứng nào cho thấy VNDCCH đặt quyền lợi quốc gia lên trên quyền lợi Quốc tế Cộng sản.
Chính thể QGVN đổi thành Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) vào ngày 26-10-1955. Tuy chính phủ VNCH nhiều lần từ chối, Phạm Văn Đồng vẫn nhắc lại đề nghị nầy hằng năm vào các ngày 11-5-1956, 18-7-1957, và 7-3-1958 để tuyên truyền với quốc tế. Lần cuối, Ngô Đình Diệm, lúc đó là tổng thống VNCH, bác bỏ đề nghị trên vào ngày 26-4-1958.
Để hiểu rõ vấn đề nầy, tốt nhất nên trở lại với hiệp định Genève ngày 20-7-1954. Danh xưng chính thức của hiệp định Genève là Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam, nghĩa là hiệp định Genève chỉ là một hiệp định có tính cách thuần tuý quân sự, không phải là một hòa ước, và không đưa ra một giải pháp chính trị nào cho tương lai Việt Nam.
Sau khi Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam và các hiệp định đình chỉ chiến sự ở Lào và Cambodia được ký kết, các phái đoàn tham dự hội nghị Genève họp tiếp và ngày 21-7-1954 thông qua bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương”.
Bản tuyên bố gồm 13 điều, trong đó quan trọng nhất là điều 7. Điều nầy ghi rằng: “Hội nghị tuyên bố rằng đối với Việt Nam, việc giải quyết các vấn đề chính trị thực hiện trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, sẽ phải làm cho nhân dân Việt Nam được hưởng những sự tự do căn bản, bảo đảm bởi những tổ chức dân chủ thành lập sau tổng tuyển cử tự do và bỏ phiếu kín. Để cho việc lập lại hòa bình tiến triển đến mức cần thiết cho nhân dân Việt Nam có thể tự do bày tỏ ý nguyện, cuộc Tổng tuyển cử sẽ tổ chức vào tháng 7-1956 dưới sự kiểm soát của một Ban Quốc tế gồm đại biểu những nước có chân trong Ban Giám sát và Kiểm soát Quốc tế đã nói trong Hiệp định đình chỉ chiến sự. Kể từ ngày 20-7-1955 những nhà đương cục có thẩm quyền trong hai vùng sẽ có những cuộc gặp gỡ để thương lượng về vấn đề đó.” (1)
Khi chủ tịch phiên họp là Anthony Eden (ngoại trưởng Anh) hỏi từng phái đoàn, thì bảy phái đoàn là Anh, Pháp, Liên Xô, Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH), Lào và Cambodge (Cambodia) trả lời miệng rằng “đồng ý”. (2) Không có phái đoàn nào ký tên vào bản tuyên bố nầy, nghĩa là bản tuyên bố không có chữ ký. Điều đó chứng tỏ rằng những nước tham dự hội nghị không cam kết và cũng không yêu cầu các bên liên hệ cam kết là sẽ thi hành tổng tuyển cử, nên không yêu cầu bên nào ký vào bản tuyên bố để cam kết hay để giữ lời cam kết.
Một văn kiện quốc tế không có chữ ký thì chỉ có tính cách gợi ý, hướng dẫn chứ không có tính cách cưỡng hành. Đây chỉ là lời tuyên bố (déclaration) của những phái đoàn, có tính cách dự kiến tương lai Việt Nam. Hơn nữa, những hiệp định với đầy đủ chữ ký mà còn bị vi phạm trắng trợn, huống gì là những bản tuyên bố không chữ ký.
Phái đoàn Hoa Kỳ và phái đoàn QGVN không ký vào Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và cũng không đồng ý bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954. Hai phái đoàn Hoa Kỳ và QGVN đã đưa ra tuyên bố riêng của mỗi phái đoàn để minh định lập trường của mình. Tuy nhiên, chính phủ QGVN vẫn tôn trọng Hiệp định đình chỉ chiến sự ở Việt Nam ngày 20-7-1954 và thi hành việc chia hai nước Việt Nam theo thỏa thuận quốc tế.
Ngoài ra, lúc đó, Hoa Kỳ càng ngày càng tăng viện cho VNCH. Nhà nước VNDCCH quan ngại rằng nếu để cho VNCH yên bình xây dựng kinh tế với sự trợ giúp của Hoa Kỳ, thì đến một lúc nào đó chắc chắn VNCH (với nền kinh tế tự do) sẽ vượt xa VNDCCH (với nền kinh tế chỉ huy theo đường lối cộng sản). Đó chính là điều mà VNDCCH thực sự lo lắng.
Sự hiện diện của người Hoa Kỳ ở VNCH chẳng những khiến cho VNDCCH rất quan ngại, mà cả Trung Quốc cũng không yên tâm. Trước đây, Hoa Kỳ hậu thuẫn cho chính phủ Quốc Dân Đảng Trung Hoa (QDĐTH), chống lại đảng Cộng Sản Trung Hoa (CSTH). Năm 1949, đảng CSTH thành công. Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa (gọi tắt là Trung Quốc) ngày 1-10-1949. Chính phủ QDĐTH chạy ra Đài Loan. Tuy nhiên Trung Quốc vẫn quan ngại Hoa Kỳ yểm trợ cho QDĐTH trở lui lục địa Trung Quốc.
Trung Quốc mạnh mẽ chống đối Hoa Kỳ khắp nơi trên thế giới, hơn cả Liên Xô chống Hoa Kỳ. Nay Hoa Kỳ lại có mặt ở miền Nam Việt Nam, gần sát với Trung Quốc nên Trung Quốc rất quan ngại. Vì vậy, VNDCCH đưa ra thêm chiêu bài “chống Mỹ cứu nước”, vừa để khích động lòng yêu nước của dân chúng Bắc Việt chống lại VNCH, vừa để thi hành chủ trương chống Mỹ của Trung Quốc và Liên Xô, ngõ hầu kêu gọi viện trợ của khối CSQT.
Như thế, rõ ràng các lý do “thống nhất đất nước” và “chống Mỹ cứu nước” chỉ có tính cách biểu kiến bên ngoài, dùng làm chiêu bài động binh, trong khi lý do thật sự được nhà nước VNDCCH che đậy chính là tham vọng lớn lao của đảng LĐ muốn đánh chiếm toàn bộ lãnh thổ Việt Nam, mà kế hoạch đã được đảng LĐ chuẩn bị từ trước khi ký hiệp định Genève ngày 20-7-1954.
2. KẾ HOẠCH LIỄU CHÂU: THAM VỌNG CỦA ĐẢNG LĐ
Hội nghị Genève về Đông Dương với 9 phái đoàn là Anh, Pháp, Hoa Kỳ, Liên Xô, CHNDTH, và bốn chính phủ liên hệ ở Đông Dương là QGVN, VNDCCH (VM), Lào, Cambodge (Cambodia), bắt đầu ngày 8-5-1954, một ngày sau khi kết thúc trận Điện Biên Phủ.
Hội nghị Genève kéo dài cho đến ngày 21-7-1954, có thể chia thành hai giai đoạn: Giai đoạn thứ nhứt từ ngày khai mạc đến 20-6-1954. Giai đoạn thứ hai từ ngày 10-7-1954 đến 21-7-1954. Giữa hai giai đoạn nầy, trong khoảng thời gian 20 ngày tạm nghỉ để các phái đoàn về nước tham khảo và nghỉ ngơi, xảy ra ba sự kiện quan trọng: 1) Tại Pháp, Mendès France chính thức nhận chức thủ tướng ngày 21-6-1954. Ông hứa hẹn với dân chúng Pháp sẽ giải quyết vấn đề Đông Dương trong vòng bốn tuần lễ và sẽ ký kết hiệp ước chậm nhất vào ngày 20-7-1954, nghĩa là Pháp dứt khoát rời bỏ Việt Nam. 2) Tại Việt Nam, Ngô Đình Diệm chính thức cầm đầu chính phủ QGVN ngày 7-7-1954 (ngày Song thất). 3) Trong thời gian nghỉ họp, Chu Ân Lai, thủ tướng Trung Quốc và là trưởng phái đoàn Trung Quốc tại Genève, về nước và mời Hồ Chí Minh bí mật hội họp tại thị trấn Liễu Châu (Liuzhou), thuộc tỉnh Quảng Tây (Kwangsi hay Guangxi), từ 3 đến 5-7-1954. Lúc đó, dư luận thế giới hoàn toàn không biết đến hội nghị nầy. Nội dung hội nghị nầy không được VNDCCH tiết lộ, mà chỉ được phía Trung Quốc tiết lộ sau năm 1975.
Trong cuộc họp Liễu Châu, Chu Ân Lai ép Hồ Chí Minh phải chấp nhận giải pháp chia hai Việt Nam, đồng thời Châu Ân Lai còn đưa ra kế hoạch cho VM rằng trước khi rút ra Bắc, VM nên kiếm cách phân tán và chôn giấu võ khí ở lại miền Nam, để hữu dụng về sau.
Về phía phái đoàn VM, Võ Nguyên Giáp, tháp tùng theo Hồ Chí Minh, đã trình bày trong cuộc họp rằng nếu phải rút ra Bắc, thì VM chỉ rút những người làm công tác chính trị bị lộ diện; phần còn lại thì ở lại để chờ đợi thời cơ nổi dậy, có thể từ 5,000 đến 10,000 người.(3) Trong số những người cộng sản gài lại ở miền Nam Việt Nam, có cả Lê Duẫn, bí thư Trung ương cục miền Nam của đảng LĐVN.(4)
Như thế, rõ ràng đảng LĐ đã sắp đặt kế hoạch trường kỳ mai phục, chuẩn bị lực lượng tấn công miền Nam Việt Nam, trước khi ký kết hiệp định Genève vào ngày 20-7-1954. Vì vậy, đảng LĐ sẵn sàng chà đạp hiệp định Genève để thực hiện chủ trưong của đảng LĐ, xâm chiếm miền Nam Việt Nam.
Muốn tiến đánh miền Nam Việt Nam, cộng sản Bắc Việt rất cần viện trợ Quốc tế cộng sản (QTCS), nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Khi Trung Quốc đưa ra tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, theo đó ranh giới biển của Trung Quốc là 12 hải lý từ bờ biển, thì ngay sau đó, để lấy lòng Trung Quốc, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, vội vàng viết quốc thư đề ngày 14-9-1958, gởi Chu Ân Lai, thủ tướng Quốc vụ viện Trung Quốc, nhìn nhận tuyên bố của Trung Quốc. Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc gồm có 4 điểm trong đó điểm 1 và điểm 4 được dịch như sau:
(1) Bề rộng lãnh hải của nước Cộng Hòa Nhân dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ nầy áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa], quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
. . . . . . . . . . . . . .
(4) Điều (2) và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc…(5)
Tuyên bố ngày 4-9-1958 của Trung Quốc xác định hai điều: 1) Chiều rộng của lãnh hải Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Sau tuyên bố của Mao Trạch Đông năm 1939 xác định Việt Nam là một nước phụ thuộc Trung Quốc,(6) nay một lần nữa Trung Quốc mặc nhiên khẳng định rằng các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam, thuộc về lãnh thổ Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa] và Nam Sa [Nansha tức Trường Sa].
Thế mà Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt, với sự đồng ý của Hồ Chí Minh và bộ Chính trị đảng LĐ, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về lãnh hải của Trung Quốc. Nguyên văn phần nội dung chính của công hàm như sau:
“Chính phủ nước Việt Nam dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa, quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Hoa trên mặt bể.” (Bản công hàm của Phạm Văn Đồng quá nổi tiếng, xin miễn chú thích.)
Tán thành bản tuyên cáo ngày 4 tháng 9 năm 1958 của Trung Quốc có nghĩa là VNDCCH đồng ý điều 4 trong bản tuyên cáo của Trung Quốc là đúng, tức Hoàng Sa và Trường Sa thuộc Trung Quốc. Dầu Hoàng Sa và Trường Sa nằm về phía nam vĩ tuyến 17, thuộc quyền kiểm soát của VNCH chứ không phải VNDCCH, nhưng cũng thuộc về tổ quốc Việt Nam. Đây là một hành vi chẳng những vi phạm Hiệp định Genève, mà còn phản quốc trắng trợn của Hồ Chí Minh và tập đoàn lãnh đạo đảng LĐVN, chỉ vì tham vọng đánh chiếm miền Nam.
3. QUYẾT ĐỊNH TẤN CÔNG MIỀN NAM VIỆT NAM
Sau cuộc CCRĐ giai đoạn 5, Trường Chinh phải rời chức tổng bí thư đảng LĐ, và Hồ Chí Minh kiêm nhiệm chức nầy kể từ 30-10-1956. Đảng LĐ chuyển công tác Lê Duẫn, từ bí thư Xứ uỷ Nam Bộ ra Bắc giữ chức Uỷ viên thường vụ Bộ chính trị để phụ tá cho Hồ Chí Minh khoảng đầu năm 1957.
Vào năm 1958, Lê Duẫn được bí mật gởi vào miền Nam nhằm nghiên cứu tình hình. Khi trở ra Bắc vào cuối năm nầy, Lê Duẩn viết bản báo cáo đề nghị đánh chiếm miền Nam bằng võ lực. Bản báo cáo của Lê Duẫn là nền tảng của quyết định quan trọng của hội nghị Trung ương đảng (TƯĐ) LĐ lần thứ 15 ở Hà Nội.
Tại hội nghị nầy, ngày 13-5-1959, ban chấp hành TƯĐLĐ đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước (tức đánh chiếm miền Nam bằng võ lực) và đưa miền Bắc tiến lên xã hội chủ nghĩa. (Nghị quyết đăng trên Nhân Dân ngày 14-5-1959).
Quyết tâm xâm lăng miền Nam của Bắc Việt thật rõ ràng. Ngày 12-9-1959, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt tuyên bố với Lãnh sự Pháp tại Hà Nội: “Ông nên nhớ là chúng tôi sẽ đến Sài Gòn ngày mai.” Trong một lần khác, vào tháng 11 cùng năm, Phạm Văn Đồng nói với vị Đại diện Canada trong Uỷ ban Kiểm soát Đình chiến: “Chúng tôi sẽ đẩy người Mỹ xuống biển.”(7)
Cùng ngày đưa ra nghị quyết thống nhất đất nước, chiếm miền Nam bằng võ lực (13-5-1959), nhà cầm quyền Hà Nội cử thượng tá Võ Bẩm, người Quảng Ngãi, lên đường vào Nam, lập đường dây liên lạc với các lực lượng gài lại trong Nam. Sau đó, ngày 1-6-1959, một toán gồm 32 cán bộ miền Nam tập kết, bắt đầu ra đi mở đường vào Nam. Đó là con đường Trường Sơn, là dãy núi được xem là sống lưng của toàn cõi Đông Dương, để đưa quân xâm nhập Nam Việt Nam. (8)
Vào năm sau, tại Hà Nội, từ ngày 5-9 đến ngày 10-9-1960, diễn ra Đại hội đảng LĐ lần thứ III, được mệnh danh là “Đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà”. Đại hội đưa ra hai mục tiêu lớn của đảng LĐ là xây dựng miền Bắc tiến lên Xã hội chủ nghĩa và tiến chiếm miền Nam bằng võ lực. Cuối Đại hội nầy, Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch đảng LĐ, Lê Duẫn làm bí thư thứ nhất (chứ không phải tổng bí thư) thay Trường Chinh (vì những sai lầm trong cuộc CCRĐ.) Bộ chính trị gồm 11 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. (9)
Điểm chót của việc chuẩn bị trong cuộc tấn công miền Nam là việc công bố thành lập Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng Miền Nam Việt Nam ngày 12-12-1960 tại Hà Nội. Mặt trận nầy chính thức ra mắt vào ngày 20-12-1960 tại chiến khu Dương Minh Châu ở Tây Ninh, Nam Việt Nam.
KẾT LUẬN
Như thế, rõ ràng nguyên nhân gây ra cuộc chiến năm 1960-1975 không phải vì QGVN và sau đó VNCH không tôn trọng hiệp định Genève (20-7-1954). Quốc Gia Việt Nam đã thi hành đúng đắn việc tập trung và rút quân về miền Nam, thực hiện kế hoạch chia hai Việt Nam ở sông Bến Hải ngang qua vĩ tuyến 17. Bản “Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Genève 1954 về vấn đề lập lại hòa bình ở Đông Dương” ngày 21-7-1954 trong đó có điều 7 là điều đề nghị một cuộc tổng tuyển cứ giữa hai miền Nam và Bắc Việt Nam, không có chữ ký của bất cứ phái đoàn nào, nên không có tính cách pháp lý để cưỡng hành.
Chuyện “giải phóng miền Nam” hay “chống Mỹ cứu nước” chỉ là chiêu bài nhằm khích động quần chúng, vì Bắc Việt dư biết trước đó Hoa Kỳ đã giúp Tây Đức, Nhật Bản, Nam Triều Tiên, mà người Mỹ không hề xâm lăng các nước nầy. Chiêu bài “chống Mỹ cứu nước” còn được sử dụng nhắm mục đích kêu gọi viện trợ của Liên Xô và Trung Quốc, vì theo đúng đường lối của CSQT.
Nguyên nhân thực sự duy nhất đưa đến chiến tranh 1960-1975 chỉ là tham vọng độc quyền cai trị Việt Nam của đảng LĐ do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Các lãnh tụ đảng LĐ lúc đó chẳng những muốn độc chiếm Việt Nam, mà còn muốn làm bá chủ cả Đông Dương nữa. (Trích Việt sử đại cương tập 6.)
TRẦN GIA PHỤNG
(phungtrangia@yahoo.com)
CHÚ THÍCH
1. Thế Nguyên, Diễm Châu, Đoàn Tường, Đông Dương 1945-1973, Trình Bày: Sài Gòn 1973, tr. 53. Vì các văn bản ký kết tại Genève được viết bằng hai thứ tiếng Việt và Pháp.
2. Hoàng Cơ Thụy, Việt sử khảo luận, cuốn 5, Paris: Nxb. Nam Á 2002, tr. 2642.
3. Tiền Giang, Chu Ân Lai dữ Nhật-Nội-Ngõa hội nghị [Chu Ân Lai và hội nghị Genève] Bắc Kinh: Trung Cộng đảng sử xuất bản xã, 2005, bản dịch của Dương Danh Dy, tựa đề là Vai trò của Chu Ân Lai tại Genève năm 1954, chương 27 “Hội nghị Liễu Châu then chốt”.(Nguồn: Internet).
4. Chính Đạo, Việt Nam niên biểu nhân vật chí, Văn Hóa, Houston, 1997, tr. 202.
5. http://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm (trích ngày 26-10-2009).
6. Năm 1939, trong một tài liệu của đảng Cộng Sản Trung Quốc, tựa đề là “Cách mạng Trung Quốc và đảng Cộng Sản Trung Quốc”, Mao Trạch Đông đã xác quyết: “Các nước đế quốc, sau khi đánh bại Trung Quốc, đã chiếm các nước phụ thuộc của Trung Quốc: Nhật chiếm Triều Tiên, Đài Loan, Lưu Cầu, quần đảo Bành Hồ và Lữ Thuận, Anh chiếm Miến Điện, Bu-tan, Hương Cảng, Pháp chiếm An-Nam.” (Nxb. Sự Thật, Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc trong 30 năm qua [tài liệu của đảng Cộng Sản Việt Nam, không đề tên tác giả], Hà Nội: 1979, tr. 16.) Như thế trong quan niệm của Mao Trạch Đông, An-Nam (tức Việt Nam) là nước phụ thuộc Trung Quốc.
7. Nguyễn Đình Tuyến, Những biến cố lớn trong 30 năm chiến tranh tại Việt Nam 1945-1975, Houston, Texas, 1995, tr. 49.
8. Con đường nầy chạy dọc theo Trường Sơn, đã từng được người xưa gọi là thượng đạo và sử dụng, như Trần Quang Diệu và Võ Văn Dũng bỏ Quy Nhơn theo đường núi ra Nghệ An năm 1802, hoặc vua Hàm Nghi (trị vì 1884-1885) từ Lao Bảo (Quảng Trị) qua Ai Lao về Quảng Bình năm 1885. Ngoài ra, trong chiến tranh 1946-1954, Trung Quốc gởi sang Bắc Việt phái đoàn cố vấn quân sự để giúp đỡ VM, do tướng Vi Quốc Thanh cầm đầu. Khi muốn kiếm cách tiến quân xuống phía Nam, tháng 10-1953, Mao Trạch Đông đã đưa ra cho Vi Quốc Thanh kế hoạch ba điểm để mở đường Trường Sơn. Ba điểm đó là: 1) Một là dùng hai đại đoàn bộ binh và nửa đại đoàn pháo binh chiếm Lai Châu, chiếm toàn bộ Tây bắc, chuyển qua Thượng Lào và Trung Lào. 2) Hai là cương quyết khai thông con đường Nam tiến [đường núi Trường Sơn]; đó là con đường huyết mạch; đo đạc thật nhanh, xây dựng kế hoạch, chia giai đoạn để hoàn thành. 3) Ba là điều động cán bộ, quân đội các liên khu 3, 4 làm công tác mở vùng; đánh được nơi nào thì củng cố nơi ấy. Mao Trạch Đông tóm gọn kế hoạch nầy trong 12 chữ: “Hai đại đoàn rưỡi, một đường quốc lộ, ba lớp cán bộ ”. (Vu Hóa Thẩm, “Đồng chí Vi Quốc Thanh trong viện trợ Việt Nam đấu tranh chống Pháp”, trong Hồi ký của những người trong cuộc, ghi chép thực về việc đoàn cố vấn quân sự Trung Quốc viện trợ Việt Nam chống Pháp, một nhóm tác giả, Bắc Kinh: Nxb Lịch sử đảng Cộng Sản Trung Quốc, 2002, Trần Hữu Nghĩa, Dương Danh Dy dịch, Dương Danh Dy hiệu đính, bản in của tạp chí Truyền Thông, Montreal, số 32& 33, tt. 103-104.)
9. Mười một ủy viên chính thức: Hồ Chí Minh, Lê Duẫn, Trương Chinh, Phạm Văn Đồng, Phạm Hùng, Võ Nguyên Giáp, Lê Đức Thọ, Nguyễn Chí Thanh, Nguyễn Duy Trinh, Lê Thanh Nghị, Hoàng Văn Hoan. Hai ủy viên dự khuyết: Văn Tiến Dũng, Trần Quốc Hoàn (cả 2 đều chính thức từ 1972.) (http://www.cpv.org.vn trích ngày 15-8-2007.)
Hiệp định Genève – Tổng tuyển cử thống nhất hai miền 1956
Sơ lược vấn đề
Chủ đề này tôi đã đề cập tới trong bài “Sáu mươi năm hiệp định Genève 1954 và cuộc Di cư vĩ đại” đăng năm ngoái 2014, nhưng gần đây có vài thân hữu đã thảo luận với tôi về vấn đề này. Có người cho rằng chính phủ Ngô Đình Diệm sau năm 1954 đã không thi hành Hiệp định Genève tổ chức Tổng tuyển cử dự trù tháng 7 năm 1956 nên CS Hà Nội có cớ xâm chiếm miền nam bằng vũ lực. Tôi nghĩ chuyện này tuy xưa cũ nhưng vẫn còn được nhiều người quan tâm nên sẽ đóng góp thêm ý kiến, dữ kiện liên quan để vấn đề được sáng tỏ hơn. Tôi chỉ chú trọng riêng về đề tài này.
Để tìm hiểu về Hiệp định Genève và Tổng tuyển cử thống nhất quí độc giả có thể coi trong cuốn Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập của Nguyễn Đức Phương, phần Phụ Lục trang 930-943. Quí vị cũng có thể tìm trên Wikipedia (Yahoo, Google), đề tái này được nói rất rõ và chi tiết, ngoài các tác giả Pháp, Mỹ như Jean Lacouture, Fredrik Logevall (1) cũng viết về vấn đề này trong sách của họ.
Xin nói sơ lược về Hiệp định Genève
Ngày 26-4-1954 Hội nghị Genève khai mạc để giải quyết các vấn đề Triều Tiên và Đông Dương. Cuộc họp thảo luận về Đông Dương thực sự bắt đầu ngày 8-5-1954 (sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ). Các nước tham dự và đại diện gồm Anh, ngoại trưởng Eden; Pháp, Bidault, sau ngày 19-6 là Chauvel; Mỹ, Thứ trưởng ngoại giao Smith; Nga, ngoại trưởng Molotov; Trung cộng, Thủ tướng Chu ân Lai; Quốc gia Việt Nam, Nguyễn Quốc Định, đầu tháng 7 là Trần Văn Đỗ; Việt Minh Thủ tướng Phạm văn Đồng.
Hiệp định được ký kết ngày 20-7-1954 gồm 4 văn kiện
1- Hiệp định đình chiến tại Việt Nam
2- Hiệp định đình chiến tại Lào
3- Hiệp định đình chiến tại Cao Mên
4- Tuyên bố cuối cùng, không có chữ ký
Tôi xin đi ngay vào đề tài, Hiệp định Genève được ký ngày 20-7-1954, nội dung chính nói về đình chiến, đất nước chia đôi tại vĩ tuyến thứ 17, chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (Việt Minh) đóng ở trên chính phủ Quốc Gia Việt Nam và quân Pháp rút vào nam dưới vĩ tuyến 17.
Ngày hôm sau 21-7-1954 Hội nghị nhóm họp trở lại và cùng nhau thảo bản Bản tuyên bố cuối cùng ngày 21-7-1954 gồm 13 điểm (2)
Bản tuyên bố cuối cùng về tái lập hòa bình Đông Dương không mang chữ ký của bất cứ phái đoàn nào tham dự hội nghị, trong đó điều 7 nói nguyên văn:
“Hội nghị tuyên bố, giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức tháng 7-1956”
Ta nên chú ý, trước nhất vấn đề Tổng tuyển cử dự trù năm 1956 chỉ là nói miệng với nhau (oral statements) và không có chữ ký (unsigned document) của bất cứ phái đoàn nào, nó không có nhiều giá trị về mặt pháp lý. Trên thực tế cuộc tổng tuyển cử tại VN năm 1956 không được các cường quốc quan tâm kể cả Nga, Trung Cộng, người ta chỉ muốn một hiệp định chấm dứt chiến tranh.
Thứ hai nó không ấn định rõ ràng hai bên phải tổ chức bầu cử ra sao? không có những điều khoản chi tiết về Tổng tuyển cử. Nó ngụ ý hai bên Bắc và Nam tự giải quyết lấy vấn đề, tùy theo thiên chí của hai bên, hoàn toàn không mang tính mệnh lệnh, quy định phải thực hiện, nói chung mơ hồ.
Nó không ấn định bầu theo thể thức như thế nào, ai thắng sẽ được quyền lợi gì? thua sẽ ra sao? có thể hai bên sẽ đưa ra những thể thức thí dụ như dưới đây:
Nếu miền Bắc thắng cử thì ông Hồ Chí Minh sẽ làm Chủ tịch đứng đầu cả nước, ông Ngô Đình Diệm thất cử sẽ xuống làm thường dân. Ngược lại nếu ông Diệm thắng cử sẽ làm Tổng thống cả hai miền, ông Hồ sẽ xuống làm phó thường dân.
Hoặc theo thể thức khác như nếu miền Bắc thắng, ông Hồ Chí Minh sẽ làm Chủ tịch đảng kiêm chủ tịch nước, ông Ngô Đình Diệm sẽ làm phó chủ tịch đảng và phó chủ tịch nhà nước và dĩ nhiên ông Diệm phải vào đảng. Trường hợp ông Ngô Đình Diệm thắng cử thì sẽ làm Tổng thống cả hai miền, ông Hồ Chí Minh sẽ làm Phó Tổng thống và phải bỏ đảng
Chuyện này thật không tưởng và mơ hồ
Lật tẩy
Năm 1956, Việt Nam Cộng Hòa từ chối Tổng tuyển cử vì cho rằng miền Bắc không bảo đảm có bầu cử tự do, dân chủ. Hà Nội vận động quốc tế kêu gọi các đồng chủ tịch Hội nghị Genève (Anh, Nga) để thực hiện Tổng tuyển cử. Tháng 6 năm 1955 Hà Nội tuyên bố sẵn sàng mở hội nghị hiệp thương với Sài Gòn nhưng không được đáp ứng. Trong khi tiến trình yêu cầu và từ chối đàm phán vẫn tiếp diễn, Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa (Hà Nội) còn cố tái lập quan hệ thương mại giữa hai miền, để giúp “nhân dân hai vùng trao đổi kinh tế, văn hóa và xã hội, nhằm tạo thuận lợi cho việc khôi phục cuộc sống bình thường của người dân”. Hà Nội đã gửi văn thư cho miền nam VN đề cập Tổng tuyển cử những năm 1955, 1956, 1957… và thậm chí sau khi đã phát động chiến tranh du kích tại miền nam 1958, 1959, 1960 nhưng họ vẫn yêu cầu miền Nam đàm phán.
Về mặt ngoại giao, tuy Hà Nội vận động kêu gọi thực hiện tổng tuyển cử nhưng chính Trường Chinh khi sang Mạc Tư Khoa họp Đại hội đảng CS Liên Xô năm 1956 đã tiết lộ với thứ trưởng ngoại giao Liên Xô Vasilii Kuznetzov rằng Miền Bắc không hội đủ điều kiện để tổ chức bầu cử thống nhất. Việc vận động quốc tế chỉ là phương thức tuyên truyền, cũng là cách giải thích thất bại với quần chúng trong nước (3).
Các cường quốc kể cả Nga, Trung Cộng đã không ủng hộ lời kêu gọi tổ chức tuyển cử của miền Bắc mà muốn hai miền Nam- Bắc được giữ nguyên như thế (ở đâu ở đó). Trung Cộng cho rằng việc tổ chức bầu cử tự do và thống nhất Việt Nam, không thể được thực hiện trong thời gian này
Sau khi ký Hiệp định Genève một năm Thủ tướng Ngô Đình Diệm nói không từ chối Tổng tuyển cử thống nhất hai miền nhưng thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ, ngoài ra ông không tin tưởng miền Bắc có thể bảo đảm bầu cử tự do.
Thực ra những năm 1955, 1956 tại miền Bắc cuộc cải cách ruộng đất dẫn tới nông dân nổi dậy ở vùng lân cận Vinh, người dân vô cùng căm phẫn. Miền Nam có chiến sự với các giáo phái khiến Ủy Hội Quốc Tế kiểm soát đình chiến tại Đông Dương (Ấn Độ, Ba Lan, Gia Nã Đại) không tin có thể có bầu cử tự do, nghiêm túc được. Ủy hội cũng không hy vọng bảo đảm một cuộc bầu cử thật sự tự do trong đó cử tri có thể bỏ phiếu theo ý muốn mà không sợ bị trả thù chính trị. Ủy hội đồng ý với quan điểm của Quốc gia Việt Nam (miền Nam) rằng miền Bắc không đủ điều kiện tổ chức bầu cử công bằng.
Nguyên văn trả lời của Thủ tướng Ngô Đình Diệm :
“Chính sách của chúng tôi là chính sách hoà bình. Nhưng không có gì có thể khiến chúng tôi đi chệch khỏi mục tiêu của chúng tôi là sự thống nhất đất nước, thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ. Vì dân tộc, chúng tôi sẽ đấu tranh hết sức mình cho sự thống nhất đất nước. Chúng tôi không từ chối nguyên tắc tuyển cử tự do để thống nhất đất nước một cách hoà bình và dân chủ. Tuy nhiên nếu những cuộc bầu cử tạo thành một trong những nền tảng cơ bản của nền dân chủ thật sự thì chúng chỉ có ý nghĩa với điều kiện chúng hoàn toàn tự do. Hiện nay, thực tế phải đối mặt với chế độ áp bức của Việt Minh, chúng tôi nghi ngờ về việc có thể bảo đảm những điều kiện của cuộc bầu cử tự do ở miền Bắc.” (4)
Quan sát viên của Ủy hội Quốc tế đồng ý với quan điểm của ông Diệm rằng miền Bắc không hội đủ điều kiện tổ chức bầu cử công bằng. CS Hà Nội vận động quốc tế thi hành Hiệp định Genève, thực hiện Tổng tuyển cử chỉ là để tuyên truyền, lấy cớ xin hiệp thương hai miền vì chính họ cũng thú nhận không đủ điều kiện tổ chức bầu cử.
Chính Trung Cộng sau này đã lật tẩy bộ mặt thật của đàn em Việt Cộng gian trá, Hà Nội không muốn Tổng tuyển cử chứ không phải họ tha thiết thống nhất bằng hòa bình. Theo tài liệu Quân sử của Bộ Trung Hoa Quân Mưu thì sự thất bại của Cải cách ruộng đất đã khiến cho CSVN không thể thực hiện Tổng tuyển cử được, cái hy vọng thống nhất bằng lòng dân qua bầu cử của CSVN sụp đổ nên họ quay lưng với Hiệp định để gây chiến tại miền nam (5)
Hiệp thương là gì? Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cố tái lập quan hệ thương mại giữa hai miền, để giúp “nhân dân hai vùng trao đổi kinh tế, văn hóa và xã hội, nhằm tạo thuận lợi cho việc khôi phục cuộc sống bình thường của người dân.” Cái này gọi nôm na là cò gỗ mổ cò thịt, miền Bắc từ sông Bến Hải trở lên, đông dân đất cầy trên sỏi đá, thiếu lúa gạo trầm trọng sau Hiệp định Genève muốn dụ hiệp thương để kiếm chút cháo của vựa lúa miền nam. VNCH giao thương với nhiều nước trên thế giới chẳng cần miền Bắc, vả lại Hà Nội lợi dụng cơ hội để đưa gián điệp, nằm vùng vào trà trộn thực hiện những âm mưu đen tối sau này.
Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa muốn lập quan hệ thương mại giữa hai miền (6) để trao đổi văn hóa, kinh tế xã hội. Hội nghị Trung ương đảng lần thứ tám (khóa hai) dự kiến:
“Muốn thống nhất nước nhà bằng phương pháp hoà bình, cần phải tiến hành thống nhất từng bước; từ chỗ tạm thời chia làm hai miền tiến đến chỗ thống nhất chưa hoàn toàn, từ chỗ thống nhất chưa hoàn toàn sẽ tiến đến chỗ thống nhất hoàn toàn.”
Cũng như vấn đề bầu cử, chính quyền miền Nam từ chối cả việc thảo luận hiệp thương. Cái trò mập mờ đánh lận con đen của Hà Nội chẳng bịp được ai, vải thưa không che được mắt thánh. Họ đã đánh giá quá thấp hiểu biết của miền nam, tưởng như chính quyền này không hay biết gì, người ta đã quá rõ bộ mặt thật của Việt Minh từ 10 năm trước.
Trong hồi ký White House Years, Chương thứ 8, The Agony of Vietnam, Kissinger nói Hà Nội không bao giờ muốn Hiệp định và hòa bình, họ chỉ muốn chiến thắng quân sự.
Thật vậy, người CS chủ trương chính quyền đẻ ra từ họng súng, năm 1954 sau Hiệp định Genève họ để lại rất nhiều cán bộ, đảng viên nằm vùng, những năm 1957, 1958, 1959… tại miền nam Việt Cộng nổi lên y như ong vỡ tổ. Năm 1973, ký Hiệp định Paris , Cộng quân nhất định không chịu rút về Bắc, họ để lại gần hai trăm ngàn quân tại miền nam. Hiệp định Paris chưa ráo mực, CSBV mở xa lộ Đông Trường Sơn ngày đêm chuyển vận vũ khí vào nam chờ ngày tổng tấn công.
CSVN thừa biết bầu cử, Tổng tuyển cử rất khó ăn, cho dù thắng cử cũng không thể tiêu diệt hết đối phương ngay mà phải mất khá nhiều thời gian cho nên dùng bạo lực cách mạng như Lénine đã dậy là chắc ăn nhất.
Ai bầu cho Hồ Chí Minh?
Tác giả GS Fredrik Logevall trong cuốn sách nổi tiếng mới xuất bản gần đây, một công trình nghiên cứu lớn về chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất có nói (7): Cả Nga và Trung Cộng đều muốn hoãn Tổng tuyển cử mà Phạm Văn Đồng đề nghị thực hiện sớm hơn, Việt Minh tin là họ sẽ thắng trong cuộc bầu cử toàn quốc. Các nhà chính trị Tây phương Pháp, Mỹ, Anh biết là ông Hồ sẽ thắng trong cuộc Tổng tuyển cử nên muốn định ngày càng xa hoặc không định ngày càng tốt. Tổng thống Eishenhower nói có thể 80% người dân Việt Nam muốn bầu cho Hồ Chí Minh hơn là cho Quốc trưởng Bảo Đại. Phía CS cả Chu Ân Lai, Molotov đều không muốn bầu cử sớm, ngày 23-6-1954 Thủ tướng Pháp nói bầu cử khi nào hai miền đã bình tâm trở lại. Chu Ân Lai nói đàm phán thỏa thuận chính trị do hai chính phủ VN ( Nam , Bắc), ông không nói họ cần thương thuyết ngay. Ngoại trưởng Nga Molotov đề nghị năm 1955, Tây phương từ chối, cuối cùng ông đề nghị tháng 7-1956 tức hai năm sau.
Các nhà sử gia, chính khách Tây phương thường lý luận đơn giản theo kiểu Tam đoạn luận:
Người VN thù ghét thực dân Pháp, ông Hồ Chí Minh chống Pháp nên được dân ủng hộ.
Người VN thù ghét Tây, ông Diệm, Ông Bảo Đại theo Tây không được dân ủng hộ.
Thực tế cho thấy hai tuần sau khi ký Hiệp Định người dân miền Bắc từ bỏ quê cha đất tổ ồ ạt di cư vào Nam bằng máy bay tai các phi trường Hà Nội, Hải Phòng và bằng tầu thủy tại Hải Phòng. Tổng cộng có hơn nửa triệu người di cư bằng tầu thủy, hơn 200 ngàn di cư bằng máy bay, khoảng trên 100 ngàn di cư bằng đường bộ, thuyền hay phương tiện riêng, sau khi bức màn sắt buông xuống nhiều người dùng thuyền vượt tuyến vào Nam. Vì số người di cư quá đông nên Cao ủy Pháp đã xin Việt Minh cho gia hạn thêm 3 tháng, ngày cuối cùng là 19-8-1955 (thay vì 19-5-1955). Trong khi đó có hơn 100 ngàn người ra Bắc hầu hết là đảng viên, cán bộ tập kết cùng gia đình, có hơn 4,000 người di cư vào Nam xin trở về Bắc.
Tổng cộng có hơn một triệu người bỏ Việt Minh di cư vào Nam theo chính phủ Quốc gia là một cái tát vào mặt Bác và Đảng, hơn một triệu lá phiếu bằng chân cho thấy ai bỏ phiếu cho ai?
Cuộc di cư bị cấm đoán ngăn cản rất nhiều, sau ngày 20-7-1954, dân Hà Nội có 80 ngày di cư, Hải Dương 100 ngày, Hải Phòng là địa điểm tập trung cuối cùng có 300 ngày. Chỉ những người sống ở thánh phố là ra đi dễ dàng, sau 80 ngày miền quê muốn đi Hải Phòng từ Hà Nội phải có giấy thông hành, thường là xin của bà con, họ hàng (ở Hà Nội) về cạo sửa làm giả để qua mắt công an Việt Minh. Những người vùng hậu phương muốn đi cũng chẳng biết cách nào. Mặc dù di cư khó khăn nhiêu khê như vậy mà cũng đã có hơn một triệu người vào Nam , nếu được đi tự do thoải mái thì số người từ bỏ Việt Minh sẽ tăng hơn nhiều
Không riêng gì TT Eisenhower nghĩ Hồ Chí Minh được lòng dân hơn Bảo Đại, Walter Robertson phụ tá Bộ trưởng ngoại giao Mỹ cũng cho là Bảo Đại theo Tây, bù nhìn bị người dân khinh ghét (8)
Đầu năm 1947, khi quân Pháp tới người dân bỏ nông thôn, thành thị theo Việt Minh vào hậu phương kháng chiến. Theo lời kể của ông Đoàn Thêm (9)
khi chính phủ Bảo Đại về nước chấp chính từ tháng 7-1949 đến đầu năm 1950 thì người dân tại hậu phương Việt Minh hồi cư tấp nập về thành thị, các tỉnh Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Nội, Sơn Tây trong tháng 7-1949 mỗi ngày có vài nghìn người, riêng ngày 30-10 tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây số người trở về lên tới 35 ngàn người. Theo Đoàn Thêm, người dân bỏ già Hồ về với cựu hoàng.
Thử hỏi tại sao người dân lại bỏ Hồ Chí Minh về với Bảo Đại trong khi ông vua này thân Tây? Tâm lý chung ai cũng muốn ấm no hạnh phúc, chẳng ai muốn sống trong cảnh đói khổ cơ hàn. Giữa cuộc đời đói cơm rách áo, đóng khố, bữa đói bữa no, khoai sắn do họ Hồ mang lại và cuộc sống tiện nghi, sung túc tại vùng Quốc gia, vùng thuộc Pháp thì người dân chọn sống chỗ nào? ở đây không nói tới chính trị mà chỉ chú ý khía cạnh xã hội, tâm lý, kinh tế của con người. Không ai mê nổi cái chính sách bần cùng hóa nhân dân của họ Hồ và tập đoàn tay sai Trung Cộng.
TT Eisenhower và một số chính khách sử gia Tây phương cho rằng người dân sẽ bỏ phiếu cho Hồ Chí Minh là hoàn toàn vô căn cứ, chẳng lẽ họ không chấp nhận một cuộc sống ấm no để lựa chọn một xã hội mọi rợ, bán khai, ăn khoai, đóng khố, chọn một cuộc sống đói khổ phản văn minh, phản tiến bộ?
Tại sao chính phủ miền Nam từ chối nói chuyện với Hà Nội về tổng tuyển cử? Thủ tướng Diệm biết chắc sẽ không có bầu cử tự do, Hà Nội sẽ đe dọa người dân phải dồn phiếu cho Hồ Chí Minh. Muốn tổ chức bầu cử tự do có quốc tế giám sát phải kêu gọi các nước đồng chủ tịch, kêu gọi Liên Hiệp quốc đứng ra bảo đảm bầu cử nhưng chuyện này rất khó thực hiện
Theo lời kể của Kissinger khi CSBV vi phạm Hiệp định Paris tấn công Phước Long cuối năm 1974, ông ta đã gửi văn thư xin can thiệp đến các nước đã tham dự Hội nghị quốc tế về VN cũng như bốn nước trong Ủy ban quân sự bốn bên (Canada, Hungary, Ba Lan, Nam Dương) (10). Hầu hết không phúc đáp, chỉ có một hai nước trả lời vu vơ, sau khi ký Hiệp định, hội họp xong người ta có khuynh hướng cao chạy xa bay, không muốn liên hệ tới chuyện đã qua.
Kết luận
Miền Nam VN không chấp nhận đề nghị Tổng tuyển cử vì:
-Thống nhất trong tự do chứ không phải trong nô lệ.
-Chính phủ Quốc gia Việt Nam không ký kết bất cứ văn thư nào của Hiệp định Genève 20-7-1954.
-Hiệp định không đề cập Tổng tuyển cử mà nó chỉ được nói tới ngày hôm sau trong lời Tuyên bố cuối cùng (final declaration) điều 7, một văn kiện không có chữ ký (unsigned document) mà chỉ là nói miệng với nhau (oral statements), thiếu căn bản pháp lý.
-Điều 7 ngắn gọn, mơ hồ, không có chi tiết qui định thực hiện, nó có nghĩa nhiệm ý (option) tùy hai bên thương lượng.
– Cuộc bầu cử tại miền Bắc sẽ không có tự do mà dưới sự chỉ đạo của Việt Minh
Ủy Hội Quốc Tế gồm Ấn Độ, Ba Lan, Gia Nã Đại không muốn đứng ra tổ chức Tổng tuyển cử cho rằng không thể có bầu cử tự do.
Hà Nội tích cực kêu gọi quốc tế thực hiện Tổng tuyển cử nhưng miền Bắc không hội đủ điều kiện để tổ chức như Trường Chinh đã thú nhận với Thứ trưởng ngoại giao Nga năm 1956. Cuối cùng việc vận động chỉ là để tuyên truyền hạ thấp miền nam VN không có thiện chí thống nhất đất nước và để có cớ xâm lược bằng vũ lực.
Dù sao CSVN cũng đã tuyên truyền thành công lừa bịp được dư luận trong và ngoài nước, ngay tại miền Nam nhiều người tin rằng chính phủ Diệm sợ thua nên không dám Tổng tuyển cử.
Giới khuynh tả Tây phương đã lên án Ngô Đình Diệm ngoan cố khao khát quyền thế độc tài, nhưng độc tài Ngô Đình Diệm và độc tài Hồ Chí Minh cái nào ác ôn? Họ khen lấy khen để Hồ Chí Minh là nhà ái quốc xứng đáng được cai trị cả nước VN, họ muốn áp đặt một chế độ mà người dân VN không chấp nhận.
Nói về cái cái gian của Việt Minh năm 1945, 1946, Tướng Navarre Tư lệnh Đông Dương đã ghi nhận:
“Họ rất giao quyệt, khôn khéo nên đã được Mỹ giúp đỡ nhiều mà còn được chính phủ Pháp lâm thời ủng hộ. Để lấy lòng Mỹ, họ vờ đóng vai phong trào quốc gia chống Nhật và Thực dân. Để được lòng chính phủ Pháp mới (1945), họ tỏ ra liên kết nước Việt Nam mới (tức VM) vào nước Pháp mới. Họ lừa những người này, gạt những người khác. Họ giả vờ đóng kịch kháng chiến chống Nhật mà Mỹ chủ trương. Họ vờ cảm tình với tân chính phủ Pháp đồng thời họ ra sức khích động nhân dân chống Pháp” (11)
Hai mươi năm sau Hiệp Định Genève 1954, Hà Nội đã tiến hành Tổng tuyển cử bằng xe tăng đại bác năm 1975, con đường duy nhất mà họ có thể thống nhất đất nước.
Nhưng ở đây chỉ là thống nhất trong nô lệ .
Trọng Đạt
—————————————–
Chú thích.
(1) Jean Lacouture: End of a War, Indochina 1954, Chương 23 từ trang 301-313.
Fredrik Logevall: Embers of War, The Fall of An Empire And The Making of America’s Vietnam , 2012, trang 605-611
(2) Hiệp định Genève 1954, Wikipedia
(3) Gaiduk, Ilya. Confronting Vietnam. Stanford, CA: Stanford University Press, 2003. Trang 78. (Wikipedia)
(4) Trích tuần báo Việt Nam (Vietnam bulletin) của tòa Đại sứ VN tại Mỹ ngày 16-7-1955 trang 24. (Wikipedia)
(5) Diễn Đàn Việt Thức, Vai Trò CS-Trung Quốc trong Chiến Tranh Việt Nam, Nhất Thanh lược dịch, Chinese Military Advisory Group-CMAG
(6) Vietnam News Agency, 7 tháng 2 năm 1955 (Wikipedia)
(7) Embers of War, The Fall of An Empire And The Making of America’s Vietnam , trang 610
(8) Embers of war trang 495
(9) Đoàn Thêm: Những Ngày Chưa Quên, quyển thượng trang 138-140, 173-174, 206-210
(10) Years ot Renewal trang 485, 486
(11) Agonie de l’Indochine, trang 13.
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
Bài đọc quan tâm
– Tuyên Ngôn Quốc Tế Nhân Quyền 1948
– Đại Hội đồng Liên hợp quốc
– Hiệp định Geneva 1954 – Nguyên nhân và hậu quả
– Hòa đàm Paris – Vietnam và các cường quốc
Hiến Pháp 26.10.1956 và thực tại chính trị dân chủ miền Nam
.
Trước đây, hơn 50 năm, vào đầu năm 1954, Việt Nam đã thực sự đứng trên bờ vực thẳm của một sự phá sản toàn diện. Thật vậy, tin Điện Biên Phủ thất thủ không những gây nên một không khí bi quan tột cùng tại Việt Nam, mà còn kéo theo một cơn lốc chính trị khiếp hải tại nghị trường Ba Lê, khiến chính phủ Laniel bị sụp đổ. Mandes France được quốc hội tín nhiệm lên làm thủ tướng với lời hứa hẹn sẽ giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương trong vòng 30 ngày, nghĩa là phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá. Còn Hoa Kỳ, dù trước đó, được Pháp khẩn khoản yêu cầu can thiệp, Tổng Thống Eisenhower do dự, không dám quyết định, sợ mất uy tín vì viễn tượng vô cùng mờ mịt cả về quân sự lẫn chính trị tại Việt Nam.
Trước tình thế hầu như tuyệt vọng đó, Ông Diệm đã chấp nhận mọi thử thách để về nước chấp chánh. Không một quan sát viên quốc tế nào vào thời đó, dù lạc quan nhất đi nữa, dám tin rằng chính phủ Diệm có thể tồn tại hơn 6 tháng. Nhưng như một phép mầu, Ông Diệm đã vượt qua mọi khó khăn nghiệt ngã, cùng những âm mưu thâm độc đang vây hãm, muốn nhận chìm chính phủ của Ông từ trong trứng nước.
Thật vậy, nhờ một ý chí quật cường, một năng lực vô song, tài lãnh đạo sáng suốt, cùng một cuộc sống đạo đức cá nhân trong sáng, thánh thiện và một thành tích chống Pháp và chống Cộng không tì vết … đã giúp Ông Diệm thống hợp được ý chí dũng mãnh phi thường của toàn dân trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước dành độc lập và tự do cho tổ quốc. Chỉ trong một thời gian ngắn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã thực hiện được nhưng thành tưu đáng kể như sau:
Biến một quân đội lệ thuộc ngoại bang và tình trạng nhiều quận đội trong một quân đội, thành một quân đội quốc gia độc lập và thống nhất, có tổ chức qui củ, có kỷ luật, có tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc.
Biến tình trạng nhiều quốc gia trong một quốc gia, do nạn giáo phái hung cứ mỗi nhóm một phương thành một quốc gia thống nhất, với một cơ chế chính quyền trung ương vững mạnh, đủ uy lực để huy động mọi tiềm năng quốc gia vào công cuộc phát triển kinh tế, canh tân xã hội và kiến tạo một đất nước dân chủ tiến bộ trong ổn định và thanh bình.
Thay đổi một cơ chế chính trị mơ hồ bằng một định chế chính trị dân chủ tiến bộ, với một bản hiến pháp, phù hợp với trào lưu chính trị thế giới, vừa đảm bảo được những quyền tự do cơ bản của mọi công dân, nhưng cũng vừa đủ mạnh để duy trì uy quyền quốc gia, nhằm đối phó với cuộc chiến tranh du kích, phá hoại và khuynh đảo do Cộng sản Bắc Việt chủ xướng. Đồng thời, tạo cơ hội để huy động mọi năng lực để tái thiết đất nước và xây dựng kinh tế thoát khỏi tình trạng nghèo đói và lạc hậu của một quốc gia bị đô hộ mới thu hồi độc lập.
Nhưng trong tất cả thành quả kể trên, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã coi trọng và rất tự hào về việc ban hành Hiến Pháp 26.10.1956, vì theo Tổng Thống, các quốc gia láng giềng Á Châu, đã mất ít nhất một vài ba năm mới có thể kiện toàn cơ chế căn bản của nền dân chủ của họ, còn chế độ Việt Nam Cộng Hòa chỉ cần một năm đã ban hành được một bản Hiến Pháp dân chủ và tiến bộ, đồng thời đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của đất nước về mọi phương diện.
Hình Thành Hiến Pháp 26.10.1956
Nếu cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23.10.1955 là hệ quả của cuộc cách mạng tự phát do Ủy Ban Cách Mạng Quốc Gai gồm 18 chính đảng và đoàn thể cùng 29 nhân sĩ có uy tin của miền Nam lúc đó thực hiện (xem Nhị Lang, trang 287-297) thì việc hình thành Bản Hiến Pháp đầu tiên của thể chế Cộng Hòa Việt Nam lại là thành quả một cuộc tranh đấu lâu dài của chính vị nguyên thủ quốc gia thời đó. Điều nầy được chính Ông Diệm xác nhận:
“Cách đây 22 năm, khi tôi có trách nhiệm quan trọng trong chính quyền, tôi đã đòi hỏi thành lập một Quốc Gia Dân Cử. Nhưng người và hoàn cảnh hồi đó chống lại ý muốn ấy, nên tôi rời bỏ chính quyền. Ấy vậy, khai nguyên một chế độ dân chủ, chẳng phải vì tình thế, mà cũng là việc tôi hằng chủ trương tranh đấu”. (Niên Giám Quốc Hội Lập Hiến, Sàigon, 1956, tr17).
Tiếp đến Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã quan tâm rất nhiều đến tie^’n trình dự thảo Hiến Pháp 26.10.1956. Trong thực tế, bản văn pha’p lý căn bản nầy không chỉ là sáng quyền duy nhất của Quốc Hội Lập Hiến thời đó, mà còn có sự tham gia chỉ đạo rất tích cực của Tổng Thống Diệm nữa. Điều nầy đã thể hiện trong thông điệp của Tổng Thống gởi quốc Hội Lập Hiến trong ngày khai mạc 17.4.1956:
Việt Nam là một nước Cộng Hòa độc lập, thống nhất và bất khả phân.
Mỗi người công dân được sinh ra, đều được tự do và bình đẳng trước pháp luật. quốc gia phải bảo đảm cho họ những điều kiện đồng đều để họ hành xử quyền lợi của mình và hoàn thành các nhiệm vụ đã được giao phó. Chính phủ có bổn phận giúp đở và bảo vệ gia đình họ, để họ có thể phát phát triển một cuộc sống gia đình thuận hòa. Tất cả các công dân đều có quyền được hưởng một cuộc sống an bình, với mục tiêu duy nhứt là được làm việc với đồng lương xứng đáng để có thể tạo nên một sản nghiệp và nhờ đó có thể đảm bảo cho mình một cuộc sống đầy nhân phẩm và tự do, bảo đảm cho mình những quyền tự do dân chủ, và tạo cho mình cơ hội được phát triển đầy đủ bản chất riêng mình. Vì phúc lợi chung và vì ne^`n Cộng Hòa, chống lại những kẻ phá hoại nền tảng của cuộc sống cộng đồng và của Hiến Pháp.
Chủ quyền quốc gia thuộc vê Quốc Dân.
Quốc Hội Dân Cử được giao phó nhiệm vụ lập pháp.
Tổng Thống của nên Cộng Hòa được bầu ra bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và kín, sẽ được ủy thác trách nhiệm hành pháp.
Tòa án phải được hoàn toàn ddộc lập để có thể đóng góp thiết thực vào việc bảo vệ được chế độ cộng hòa, trật tự, tự do và nền dân chủ.
Một Viện Bảo Hiến cũng phải được thành lập để có thể giải quyết những tranh chấp có lien quan đến các luật lệ hiến định.
Các lựu lượng kinh tế phải lien kết với nhau để hành xử quyền hành của họ bằng cách thiết lập nên một Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia (Ibid).
Thực tại chính trị Việt Nam
Như mọi người đều biết, Hiến Pháp tự nó chỉ là một văn kiện pháp lý, không thể mang lại tự do dân chủ cho người dân, nếu chính quyền không thực tâm thi hành những điều khoản đã được long trọng công bố trong đó. Điều nầy thể hiện rõ nét trong thực tại chính trị tại các quốc gia cộng sản. Thực vậy, các quốc gia cộng sản cũng có những bản hiến pháp rất tiến bộ, qui định rất rõ rệt những quyền tự do căn bản của mọi công dân. Nhưng trong thực tế, đó là những chế độ độc tài toàn trị, chính quyền đã thâu tóm mọi quyền hành và những điều khoản căn bản mà Hiến Pháp đã dành cho người dân đều bị chính quyền chà đạp một cách thô bạo.
Từ ý nghĩ đó, người viết muốn tìm hiểu một cách khách quan vô tư về thực tại chính trị Việt Nam trong việc thực thi văn kiện văn kiện pháp lý căn bản của chế độ. Đồng thời, cũng xin minh xác ở đây, trong bài nầy sẽ không đề cập đến nội dung của Hiến Pháp 26.10.1956, vì luật sư Hà Như Chi, dân biểu của Quốc Hội Lập Hiến và cũng là thành viên trong Ủy Ban soạn thảo Hiến Pháp, đã trình bày khá đầy đủ trong quyển Kỷ Yếu Ghi Ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm, xuất bản tại California, 2005, dưới nhan đề Quốc Hội Lập Hiến và Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa, tr 31-44.
Tổng Thống Ngô Đình Diệm độc tài?
Phần lớn những chính trị gia đối lập với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, mà người viết được tiếp xúc, đều cho là Tổng Thống Ngộ Đình Diệm là một người độc tài, không chấp nhận đối lập, không biết liên kết với đảng phái quốc gia để tạo thành những liên minh chính trị có qui mộ lớn để động viên sự ủng hộ của toàn dân, nhằm chống cộng sản hữu hiệu, như Bs Nguyễn tôn Hoan, một lãnh tụ Đảng Đại Việt, hệ phái Miến nam đã phê bình Ông Diệm:
Ông Diệm lúc đầu là một nhà cách mạng thật sự và đạo đức, tôi đã cộng tác với Ông trong những thời gian đầu của thập nên 1950. Nhưng đến khi Ông Diệm về nước cầm quyền 1954, Ông càng ngày càng tỏ ra độc tài không còn muốn nghe lời ai nữa, Ông không muốn chia xẽ quyền hành với các đảng phái quốc gia khác. Tôi không đồng ý với quan niệm đó và đã rời Việt Nam để sống lưu vong. (Bs Nguyễn Tôn Hoàn trả lời phỏng vấn của tác giả, tại San Jose, tháng 7, 1986).
Trước đó nhiều năm, khi còn giảng sư Lịch sử Chính Trị Việt Nam Hiện Đại, tại Viện Đại Học Đalat, tôi có nhiều dịp tiếp xúc với ông Võ Văn Hải, bí thư của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và từ năm 1967-1975, ông cũng là giáo sư thỉnh giảng tại cơ sở giáo dục nầy. Khi tôi hỏi về thái độ của Tổng Thống Ngộ đình Diệm đối với các chính khách đối lập, ông Hải tiết lộ:
Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho rằng phần lớn các chính khách Việt Nam không có một kiến thức chính trị thực tiển và không hiểu thực tại chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia chậm tiến mới thu hồi độc lập như Việt Nam, Việt Nam lúc ấy phải đối đầu với hậu quả của cuộc chiến tranh khốc liệt suốt 9 năm, trong đó mọi hạ tầng cơ sở bị tiêu hủy hoàn toàn, cầu cống, đường sá, hệ thống viễn thông … toàn bộ bị phá sập, cắt đứt. hệ thống ngân hàng sụp đỗ toàn diện vì không ai tin tưởng nữa. Từ đó kinh tế quốc gia đi vào ngỏ cụt đầy tăm tối … Chính trị thì vô cùng hỗn loạn, các giáo phái hùng cứ mỗi người một phương. Ngay tại đô thành Sàigon, lực lượng công an cảnh sát do Bình Xuyên nắm giữ, nhiệm vụ chính của họ không phải bảo vệ an ninh trậ tự cho dân chúng, mà để duy trì và củng cố mức thu nhập tài chánh cho các sòng bạc (Casino), các ổ điếm và các trung tâm hút thuốc phiện của Bảy Viễn. Quân đội do các sĩ quan Pháp nắm giữ, lúc nào cũng sẳn sàng thách thức quyền lực chính phủ, để bảo vệ quyền lợi của thực dân và tài phiệt Pháp. Thêm vào đó, đất nước bị chia đôi, chính quyền phải định cư cho gần 1 triệu đồng bào di cư từ miền Bắc vào Nam. Mặc dù, theo hiệp định Genève, cuộc chiến đã kết thúc và cộng sản tập kết ra Bắc, nhưng thực tế họ đã gài người ở lại để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh du kích, phá hoại và khuynh đảo mới. Thực dân Pháp, dù tuyên bố trao trả chủ quyền cho Việt Nam, nhưng trong thực tế vẫn còn có nhiều ý đồ đen tối để duy trì đặc quyền, đặc lợi của giới tài phiệt Pháp tại đây … đất nước vừa mới thu hồi độc lập, dân chúng còn bỡ ngỡ trước quan niệm tự do dân chủ, dân chúng còn ngheo đói, không đủ ăn đủ mặc. Nếu đem áp dụng những quan niệm dân chủ lý tưởng của Tây Phương chắc chắn sẽ đưa đến hỗn loạn.
Trong hoàn cảnh đó, mà Bs Nguyễn Tôn Hoàn và Ks Phan Khắc Sửu .. đòi phải áp dụng chế độ Dân Chủ Đại Nghị của Đệ Tam Cộng Hòa Pháp Quốc, để đem hứng khởi lại cho người dân và cổ vũ cho mọi chính đảng tham gia vào mặt trận chính trị quốc gia nhằm đối đầu với cộng sản và thực dân …
Theo Ông Diệm, các cụ không theo dõi những biến chuyển chính trị trên thế giới, đặc biệt các quốc gia Á Phi, sau khi thu hồi độc lập, họ cần phải có một chính quyền mạnh để có thể thực hiện các cuộc canh tân khẩn cấp về chính trị và kinh tế, để có thể bắt kịp đà tiến hóa của thế giới sau nhiều năm bị kèm hảm trong sự chậm tiến dưới chế độ thực dân đô hộ. Và ngay quan niệm Dân Chủ Đại Nghị của Đệ Tam Cộng hòa Pháp Quốc, đã lỗi thời ngay cả ở nước Pháp, một quốc gia có truyền thống dân chủ lâu đời nhất thế giới nầy, vì nó gây nên quá nhiều bất ổn chính trị, có khi trong một tháng mà phải thay đổi chính phủ đến 2 lần, có khi chính phủ tồn tại có 3 ngày là sụp đỗ … thử hỏi, một người có chút công tâm, một chút nhận thức về thực tế chính trị đất nước và chiều hướng phát triển kinh tế chính trị tại các quốc gia Á Phi, sau thế chiến thứ 2 … có thể chấp nhận quan điểm dân chủ của cụ Hoàn, cụ Sửu … không?
Ông Diệm khẳng định, vì quyền lợi tối thượng của quốc dân và tổ quốc, Ông không thể chấp nhận quan điểm nầy.
Nhưng bất hạnh cho cá nhân Tổng Thống Ngô Đình Diệm và có thể cho toàn thể miền Nam không ngừng ở đó. Ngày 27.1.1960, Cộng sản lợi dụng dịp Tết Nguyên Đán, bất ngờ tấn công vào Trảng Sụp, thuộc tỉnh Tây Ninh, gần biên giới Việt Miên, với quân số cấp trung đoàn. Điều nầy chứng tỏ mức độ xâm nhập, phá hoại và khuynh đảo của cộng sản Bắc Việt đã đến độ nguy hiểm cho sự tồn vong của Việt Nam Cộng Hòa.
Trong chính tình hình đó, thật là khó hiểu và đầy mĩa mai, tháng 4 năm 1960, 18 chính kách tên tuổi của miền Nam họp tại khách sạn Caravelle, đưa ra một kiến nghị đòi Tổng Thống Diệm mở rộng chính phủ, thực thi những quyền tự do căn bản trong Hiến Pháp như quyền tự do báo chí, tự do hội họp … thật là đầy bí ẩn, khi đát nước đang ở trong tình trạng khẩn trương của chiến tranh, các cụ lại đi đòi hỏi thực thi những điều tự do quá lý tưởng và không thực tế nầy. Đến nỗi, một nhà bình luận người Anh có nhiều kinh nghiệm về Việt Nam, Ducanson đã nhận xét mà người viết có thể tóm lược như sau:
“Nếu bản kiến nghị nầy được đưa ra trong điều kiện chính trị ổn định của một miền Nam không bị cộng sản Hà Nội đe dọa tiêu diệt, thì đó là yêu sách đáng được cứu xét nghiêm chỉnh. Điều đáng tiếc nhất, là khi cộng quân đã tấn công cấp trung đoàn và các vụ sát hại các viên chức chính phủ hầu như xảy ra hằng ngày, thì đó là những yêu sách nếu không muốn bảo là ngớ ngẩn, thì ít ra cũng bắt nguồn từ sự thiếu khôn ngoan.” (Ducanson, Denis J. Government and Revolution in Vietnam, 1968).
Dù vậy, nhưng biến cố nầy sau khi được nhà báo thiên tả như Jean Lacouture viết những bài tường thuật trên báo Le Monde tại Paris đã kết án chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là độc tài, không thực thi nghiêm chỉnh Hiến Pháp và không được sự ủng hộ của đa số chính khách đối lập trong việc theo đuổi chính sách chỉ đạo cuộc chiến tranh chống Cộng tại Việt Nam. Điều nầy đã làm xấu đi hình ảnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại chính trường Hoa Thịnh Đốn.
Tiếp đến, một biến cố quân sự khác, đó là cuộc đảo chánh 11-11-1960 do Trung Tá Vương Văn Đông chủ xướng. Ông Đông là một sĩ quan thân Pháp, bất mãn với chính quyền Ông Diệm, kết hợp với một số sĩ quan gốc Bắc cũng bất mãn như ông, vì cho rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm kỳ thị địa phương, chỉ thích sử dụng người miền Trung (Đại Tá Phạm Văn Liễu đàm luận với tác giả tại California, 7-1986). Do đó, các sĩ quan nầy chủ động một cuộc đảo chánh quân sự một cách vội vã và thiếu tổ chức, chứ không có một hậu thuẩn chính trị nào đáng kể. Về phương diện chính trị, ông Đông có liên lạc với luật sư Hoàng Cơ Thụy, một người có họ hàng với ông, như là người phụ trách bộ phận chính trị của cuộc đảo chánh, nhưng ông Thụy không có liên lạc hay nối kết hoặc được sự ủng hộ của một chính đảng nào. (xem Vương Văn Đông, Binh Biến 11-11-1960, Phụ Nữ Diễn Đàn, Virginia, số 106 tháng 11/1992, tr 41-42). Chỉ khi Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, người tham gia đảo chánh vào giờ chót, cho mời nhà văn Nguyễn Tường Tam, kỷ sư Phan Khắc Sửu, vì không nắm vững tình thế lúc đó, nên các cụ ủng hộ cuộc đảo chánh vào giờ chót, và sau này, các cụ đã gặp khá nhiều hệ lụy phiền phức với chính quyền. Trong khi luật sư Thụy, vì được CIA móc nối và khuyến khích thực hiện cuộc binh biến nầy từ trước, nên sau khi sự việc bất thành, CIA đã đưa vị luật sư nầy rời khỏi Việt Nam một cách an toàn.
Rồi ngày 20.12.1960, Cộng sản Bắc Việt chính thức khai sinh Mặt Trân Giải Phóng Miền Nam để phát động cuộc xâm lăng võ lực thôn tính Miền Nam.
Ba sự kiện trên đây, đối với người viết, xảy ra hoàn toàn riêng rẽ, không có một liên hệ hỗ tương, nhân quả hay luận lý nào với nhau. Nhưng đối với dư luận, nhất là tại Hoa Kỳ, họ cho rằng ba biến cố nầy đã có một liên hệ nhân quả mật thiết, nghĩa là chính quyền Diệm độc tài, đàn áp đối lập, hạn chế những quyền tự do căn bản …, xa rời quần chúng, khiến đa số chán ghét chế dộ Diệm nên đã có những thành phần trí thức bất mãn như nhóm Caravelle đòi hỏi cải cách chính trị, nhóm sĩ quan nhảy dù thực hiện đảo chánh quân sự và sau khi những nỗ lực nầy thất bại, những thành phần đối lập nầy, không còn phương cách nào khác hơn, đã phải nối kết lại với nhau dựng nên Mặt Trân Giải Phóng Miền Nam, hoàn toàn độc lập với Hà Nội, xử dụng võ lực để chống lại chính phủ Miền Nam. Điều thiếu may mắn nữa cho Ông Diệm và cũng cho Miền Nam, là quan điểm nầy lại được một chuyên gia rất có uy tín về Việt nam là G. Kahin, giáo sư của Địa Học nổi tiếng Cornell và cũng là cố vấn của Tổng Thống Kennedy về Việt Nam sau nầy nhiệt tình ủng hộ. (xem Kahin George, Intervention, 1986). Từ những nguyên nhân sau xa đó, uy tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong chính giới Hoa Kỳ ngày càng giảm sút nghiêm trọng, đến nổi, cuối năm 1961, những nhà làm chính sách tại tòa Bạch Ốc đã có lúc nghĩ đến việc ám sát Tổng Thống Ngô Đình diệm, nhằm thay đổi cơ chế lãnh đạo của Miền Nam.
Trong thời gian đó, chỉ có chính quyền Úc có một cái nhìn sâu sắc và thực tiển hơn về vấn đề xây dựng dân chủ và đường lối chính trị cứng rắn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong chủ trương theo đuổi cuộc chiến tranh chống Cộng, Ngoại Trưởng R. G. Casey của Úc đã nhận xét:
“Hai sự việc cần được mọi người ghi nhớ khi muốn chỉ trích chính quyền Việt Nam . Thứ nhứt, Việt Nam đang ở tuyến đầu của cuộc chiến tranh lạnh. Chính phủ quốc gia đó, không thể để một khe hở nào cho đối phương khai thác. Một kẻ hở nào cũng sẽ cựuc kỳ nguy hiểm, không những cho Việt nam mà còn cho cả tự do của Đông Nam A` Châu nữa. Thứ hai, sự thực hiện dân chủ trên bình diện quốc gia là một quan niệm hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam và cần phải có thời gian để phát triển các định chế, các truyền thống, các tập tục hầu thực hiện các quyền dân chủ theo đường hướng xây dựng và có trách nhiệm”. (Richard Lindhelm, Vietnam, the First five years Ann Arbor, Michigan, 1959, tr 344).
Quan Niệm Dân Chủ Việt Nam và Hoa Kỳ
Sai Lầm của Mỹ
Điều khá khôi hài, khi quan niệm dân chủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và của Tổng Thống Kennedy đều bắt đầu bằng hai chữ T. Đó là Dân Chủ Thành và Tín của Ông Diệm trong khi Dân Chủ của Kennedy là dân chủ thực tiển. Thật vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm luôn luôn chủ trương rằng đời sống dân chủ nói cho cùng … chính là việc đem áp dụng các giá trị thành và tín vào cuộc sống hằng ngày một cách thật hoàn hảo. Trong khi đó, các giới chức của chính quyền Hoa Kỳ chủ trương dân chủ thực tiển, nghĩa là dân chủ phải thực tế, từ ngữ tự do dân chủ, chủ quyền quốc gia và công pháp quốc tế, chỉ một ý nghĩa vô cùng tương đối và tùy tiện, nhắm pphuc5 vụ cho quyền lợi của Hoa Kỳ thời đó đã khẳng định rằng, vì quyền lợi của nước Mỹ, không những họ có quyền mà còn có trách nhiệm để thay đổi cơ chế lãnh đạo Miền Nam lúc bấy giờ. Cũng như ngày nay, Hoa Kỳ chỉ đặt nhân quyền, tự do tôn giáo … với chính quyền Hà Nội, khi người Mỹ còn muốn mặc cả về những điều kiện kinh tế và thương mại cho giới tư bản Mỹ, nhưng khi những yêu sách nầy của Mỹ được Hà Nội thỏa mãn, thì những vấn đề nhân quyền … của Việt Nam chắc chắn sẽ không còn được chính quyền Hoa Kỳ đề cập đến nữa. Đó là những thực tại chính trị khá phủ phàng nhưng rất thực tế của nước Mỹ và cũng là nan đề trong việc thực thi dân chủ tại Miền Nam của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà người viết sẽ trình bày một cách chi tiết trong phần dưới đây.
Bối Cảnh Lịch Sử Chính Trị, ‘Chia để Trị’
Tổng Thống Ngộ đình Diệm thường tâm sự với các cộng sự viên thân tín:
Người Mỹ không có khả năng phân biệt được thế nào là uy quyền quốc gia và chủ quyền dân tộc với lối cai trị độc tài … Vì truyền thống xã hội Việt Nam, bối cảnh chính trị và lịch sử của đất nước, đòi buộc các nhà lãnh đạo Việt Namphai3 chú trọng đến việc nâng cao chủ quyền quốc gia (Ngô Đình Luyện đàm luận với tác giả tại Ba Lê, tháng 9,1986).
Thật vậy, xuyên qua lịch sử Việt Nam, quốc gia nầy đã bị người Trung Hoa cai trị gần một ngàn năm và hơn 80 năm bị người Pháp đô hộ. Những người thống trị ngoại bang nầy đã áp dụng một chính sách chia để trị nhằm chia rẽ Việt Nam và kiềm hảm quần chúng trong cảnh thất học, nghèo đói và chậm tiến. Cũng theo Tổng Thống Ngô đình Diệm, chính sách nầy đã để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho xã hội Việt Nam trên nhiều bình diện khác nhau:
Trước hết là tình trạng phân hóa. Điều nầy thể hiện khá rõ rệt trong lịch sử đất nước chúng ta. Sauk hi Ngô Quyền dành độc lập cho tổ quốc và chấm dứt thời kỳ lệ thuộc vào phương Bắc, đất nước chúng ta đã phải trãi qua thời kỳ Thập Nhị sứ quân. Và đến thế kỷ thứ 15, dân tộc nầy phải sống trong cảnh Nam Bắc Phân Tranh gần 100 năm. Dưới thời Pháp đô hộ, chính quyền thức dân đã chia Việt Nam thành 3 miền khác nhau: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ và được đặt dưới những chế độ chính trị khác nhau:
Thật vậy, trên nguyên tắc, Bắc Kỳ và Trung Kỳ được đặt dưới chế độ Bảo Hộ (Protectorate), nhưng trong thực tế, cách thức cai trị ở Bắc kỳ và Trung Kỳ cũng khác nhau. Ở Bắc Kỳ, người Pháp đòi buộc Triều Đình Huế ủy quyền cho một viên chức Pháp gọi là Thống Sứ để đại diện Hoàng Đế Việt Nam điều hành công việc hành chánh tại miền đất nầy. Trong khi Trung Kỳ thuộc thẩm quyền của các Vua Triều Nguyễn, cai trị dân chúng dưới sự chỉ đạo của Khâm Sứ Pháp tại Huế. Còn Nam Kỳ được đặt dưới chế độ thuộc đia (colony) hoàn toàn do người Pháp cai trị. Người dân sống từ vùng nầy sang vùng khác; ví dụ như Bắc Kỳ vào Nam Kỳ, phải xin giấy thông hành (passport) giống như người từ quốc gia sang quốc gia khác vậy. Rồi vào thập niên 1950, người Pháp đặt Cao Nguyên Trung Phần dưới một thể chế cai trị đặc biệt được mênh danh là Hoàng Triều Cương Thổ. Và tiếp theo, người Pháp cũng cắt một số tỉnh miền Dông và miền Tây Nam Kỳ đặt dưới quyền cai trị riêng của hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo.
Áp dụng biện pháp cai trị đó, người Pháp nhằm mục đích tạo tình trạng phân hóa giữa người Việt và làm ung thối tiềm năng đấu tranh dành độc lập của dân tộc. Theo ông Ngô Đình Luyện, khi về nước cầm quyền, Ông Diệm đã phải đối dầu với tình trang chia rẽ trầm trọng. Do đó, chính phủ không còn cách nào khác hơn là tập trung quyền hành để thống nhất uy quyền quốc gia, nhằm xây dựng độc lập cho dân tộc, phát triển kinh tế, cải tạo xã hội và ngăn cản âm mưu khuynh đảo của cộng sản.
Ngoài ra, để dễ dàng duy trì chế độ thực dân, người Pháp đã kiềm chế dân tộc Việt Nam trong cảnh thất học. Họ đã hạn chế việc xuất bản sách báo và kiểm soát gắt gao việc mở trường dạy học. Trong thực tế, chính quyền thực dân chỉ mở một số ít các trường học nhằm đào tạo một số công chức cấp thấp để phục vụ cho guống máy cai trị của họ tại Đông dương. Chủ ý của họ là tạo nên một giới thư ali5 thụ động, thiếu trách nhiệm, chỉ biết vâng lệnh và không biết tự tìm cách giải quyết các vấn đề. Do đó, khi thu hồi độc lập, chính quyền trung ương đã phải giải quyết tất cả mọi vấn đề trên toàn quốc. Theo ông Ngộ Đình Luyện, trong nội các của Ông Diệm năm 1955, chỉ có 2 đến 3 tổng trưởng là dám nhận lãnh trách nhiệm để điều hành các công việc thuộc phạm vi quyền hạn của họ. Còn những người còn lại, vì sợ trách nhiệm hoặc không đủ hiểu biết chuyên môn để giải quyết các vấn đề khó khăn; do đó, đã tìm mọi cách để tránh né và chuyển gánh nặng hành chánh của họ lên vai Tổng Thống Diệm. Chính vì tình trạng nầy, vào những năm sau cùng của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Diệm đã phải gởi hang núi hồ sơ cho ông Ngô đình Nhu, người cố vấn thân tín nhất của Tổng Thống để giải quyết. Đó là lý do giải thích tại sao hằng ngày Tổng Thống Diệm đã phải làm việc hết sức cực nhọc từ 5 giờ sáng đến nửa khuya và đôi khi đến 1 hy 2 giờ sáng ngày hôm sau.
Như điều tai hại cho Tổng Thống Diệm, là những người cộng sự viên thiếu tinh thần trách nhiệm nầy, thường bí mật phàn nàn với cố vấn Mỹ, là Tổng Thống Diệm không biết ủy quyền cho các thuộc cấp, muốn tập trung tất cả quyền hành vào trong tay mình, cho nên đã tạo nên nhiều sai lầm nghiêm trọng. (Theo Ngô Đình Luyện, đàm luận với tác giả). Chính vì vậy, mà Hilsman, Thứ Trưởng Ngoại Giao, Đặc Trách Viễn Đông Sự Vụ, khi quan sát tình hình Việt Nam vào đầu năm 1963, đã kết luận:
Dù có biện hộ hay né` tránh thế nào đi nữa, vấn đề cuối cùng vẫn là nơi Ông Diệm. (Xem Hilsman, To Move A Nation, tr 460).
Phương Cách Thực Thi Dân Chủ
Đối với Tổng Thống Diệm, dân chủ kiểu Mỹ là một sản phẩm xa xỉ hoàn toàn không thích hợp với một quốc gia chậm tiến như Việt Nam . Cũng theo Ông, xã hội Việt Nam, đa số dân chúng hơn 80% sống ở thôn quê, còn đói nghèo, thất học, không có an ninh, luôn bị du kích Cộng sản đe dọa; thì những tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do bầu cử chẳng có ý nghĩa gì cả đối với họ. Điều mà dân chúng ở nông thôn mong muốn là một chính quyền mạnh mẽ, đủ để bảo đảm an ninh cho họ chống lại sự khủng bố của Việt Cộng. Hằng đếm, du kích Cộng sản dùng sung hăm dọa để thu thóc gạo, cưởng bách con em họ phải tham gia hang ngũ cán binh Việt Cộng. Ngoài ra, dân quê cần chính quyền tạo cho họ một đời sống đủ ăn, đủ mặc chống lại sự bóc lột của chủ đất, và của một thiểu số có thế lực và giàu có. Rồi từ đó, họ có đủ phương tiện gởi con em họ đến trường học, hấp thụ được một nền giáo dục căn bản, đủ kiến thức chính trị cần thiết. Lúc đó, người dân quê sẽ biết xử dụng quyền tự do căn bản của họ, để thực sự tham gia các cuộc bầu cử và ứng cử nhằm ngăn chận những người địa chủ và một thiểu số giàu có, lợi dụng sự nghèo đói và thất học của họ đã khai thác và bóc lột họ.
Lý thuyết của Tổng Thống Diệm đã được áp dụng vào thực tế qua những chương trình sau đây:
Chương trình cải cách ruộng đất, được mệnh danh là chương Trình Người Cày Có Ruộng trong đó chính phủ mua đất của các địa chủ phát cho người nghèo.
Chương Trình Dinh Điề, chính phủ đã thực hiện một công cuộc di dân từ các làng xã dân cư đông đúc và nghèo khổ; ở đó dân không đủ đất để cày hoặc đất đai quá cằn cổi, đến những vùng đất đai trù phú hơn ở Cao Nguyên để khẩn hoang lập nghiệp. Trong thời gian đầu, chính phủ giúp cho dân chúng đầy đủ các vật dụng để xây cất nhà cửa, các nông cụ canh tác. Đồng thời, chính phủ cũng cung cấp đầy đủ lương thực và quần áo để sống trong vòng 6 tháng đầu tiên để chờ đợi mùa màng sinh hoa lợi.
Chương trình Khu Trù Mật, chính phủ đã chọn một số địa điểm ở thôn quê, để xây dựng các cơ sở với những tiện nghi của thành phố như lập nhà máy điện, đào gieng61 nước được trang bị máy bom tối tân, xây bệnh viện, trường học .. để dân chúng nông thôn hưởng thụ những tiện ích của đời sống văn minh.
Chương trình Ấp Chiến Lược. Đây là chương trình rất quan trọng nằm trong sách lược của quốc gia nhằm chống lại cuộc chiến tranh khuynh đảo do chính quyền Hà Nội chủ xướng.
Qua chương trình nầy, chính quyền địa phương đã thực hiện một cuộc thanh lọc để loại trừ những thành phần cộng sản nằm vùng ra khỏi dân chúng. Sau đó, chính quyen62 đoàn ngũ hóa dân chúng thành những tổ chức chiến đấu để chống lại sự khủng bố của cộng sản. (…)
Về phương diện kinh tế, mỗi ấp đã trở thành một đơn vị phát triển kinh tế tự túc. Thật vậy, lúc đầu với một máy sản xuất gạch ngói có tính cách tiểu công nghệ do chính phủ giúp đở, với lối làm việc vầnn công và đổi công, chẳng bao lâu trong ấp, tất cả các nhà tranh được thay thế bằng các nhà gạch với mái ngói khang trang với vườn cây ăn trái tốt tươi và xinh đẹp.
Về phương diện chính trị, mỗi ấp tự bầu lên một ban trị sự để điều hành mọi công việc trong ấp. đây là phương cách hữu hiệu và thực tiễn để người dân quê có thể tiếp tục xử dụng những quyền tự do dân chủ căn bản để bầu người đại diện của mình vào cơ cấu hành chánh xã ấp.
Theo Tổng Thống Diệm, đây là cách thực hiện dân chủ hiệu quả nhất của một quốc gia chậm tiến đang phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại và khủng bố do Cộng sản điều động từ bên ngoài. Nói một cách khác, đây là cách phát triển dân chủ từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc của quốc Gia. Chỉ trong cơ cấu nầy, người dân quê cô thế và thất học mới thật sự được thụ hưởng những quyên tự do căn bản của con người. Cũng theo Tổng Thống Diệm, phương cách chính trị phù hợp với truyền thống dân chủ ngàn xưa của dân tộc Việt. Đó là người dân được quyến quyết định mọi việc trong làng, phép vua thua lệ làng. Và thượng tầng, vẫn được duy trì được uy quyền tối thượng của quốc Gia.
Tổng Thống Diệm cũng thường nói với cộng sự viên thân tín như sau:
Nếu đem áp dụng một cách cứng ngắt kiểu dân chủ Mỹ vào Việt Nam, không những không đem lại lợi ích cho Quốc Gia, mà còn tạo thêm cho một thiểu số giàu có bóc lột những người dân nghèo thất học, giúp phương tiện cho những chính trị gia cơ hội, xu thời và những thành phần thân Cộng ở các thành phố dùng các phương tiện truyền thông để chỉ trích chính phủ, gây thêm rối loạn trong một quốc gia cần sự ổn định, để theo đuổi cuộc chiến tranh sống còn chống lại âm mưu khuynh đảo của Cộng sản. (Võ Văn Hải, đàm luận với tác giả, tại Đalat, 1973)
– Trong khi đó, những nhân vật trí thức cấp tiến của Bộ Ngoại Giao Mỹ, Harriman, Hilsman, đã không hiểu được bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam nên đã có những nhận định và chính sách sai lầm khi theo đuổi cuộc chiến tranh chống Cộng. Sau nầy, Tổng Thống Nixon đã phân tích điều đó trong tác phẩm No More Vietnam của ông. Ông cho rằng các chuyên gia của chính quyền Kennedy thời đó đã lầm lẫn cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh cách mạng. Trong khi đó, thực tế, đó là cuộc chiến tranh du kích, phá hoại, khủng bố, đột nhập từ bên ngoài do Cộng sản Hà Nội điều động.
Chính vì vậy, những chuyên gia nầy luôn luôn đòi hỏi phải mở rộng tự do báo chí, tự do hội họp và lập các đoàn thể, tạo điều kiện cho các chính trị gia đối lập tham gia vào nội các để có thêm hậu thuẩn trong quần chúng. (xem Nixon, op.cit., 1982).
Đây là những điề kiện mà theo Tướng Taylor của Mỹ nhận xét, ngay chính nước Mỹ cũng không thể áp dụng được trong thời chiến tranh như Thế Chiến Thứ Hai chẳng hạn. Và ngày nay, sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, thực tế càng cho thấy một cách rõ ràng hơn của các cố vấn chính trị của Tổng Thống Kennedy. Thật vậy, Miền Nam đã mất, không phải vì Cộng sản thành công trong việc kêu gọi dân chúng nổi dậy lật đổ chính quyền như sách lược khuynh đảo trong chiến tranh cách mạng do cộng sản chủ xướng. Nhưng thực tế, Miền Nam đã sụp đổ vì Cộng sản đã xử dụng thiết giáp, chiến xa, đại pháo và quân đội chính quy tiến vào Dinh Độc Lập, nghĩa là những phương tiện của một cuộc chiến tranh qui ước đột nhập từ ngoài vào, phối hợp với những hoạt động du kích phá hoại từ bên trong.
Chính vì thế, Tổng Thống Diệm đã than thở:
Chúng ta có một người bạn quí giúp đở tiền bạc nhưng không hiểu chi cả về chuyện Việt nam.
(Nguyễn Văn Châu, 1989, tr.228)
Trong khi đó, ông Nhu cũng thường tâm sự với cộng sự viên thân cận của ông như sau:
Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải rập khuôn như họ … nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu nầy khác … Trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh. Tổng Thống kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là phỏng theo phong cách sinh hoạt chính trị xã hội Mỹ . .. Ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm chia rẽ, nạn kỳ thị và phe phái … Nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hổn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hổn loạn giữa lúc đang có chiến tranh. (Bs trần Kim Tuyến, đàm luận với tác giả, Cambridge, tháng 9, 1986).
Có lẽ một cách tổng quát phải nói rằng, đối với quan niệm Dân Chủ Tây Phương và tinh thần quản trị khoa học của Mỹ, lề lối làm việc của Tổng Thống Diệm không thể chấp nhận được và Tổng Thống Diệm quả là nhà độc tài vì Ông ta không biết cách ủy nhiệm quyền hành và phân quyền trong guồng máy cai trị quốc gia.
Tuy nhiên, trong thực tại chính trị Việt Nam, có lẽ cũng là một sai lầm nếu nghĩ rằng những phương pháp đem lại kết quả tốt ở Phương Tây, nó cũng sẽ đạt được những thành tích như vậy, khi đem áp dụng ở Phương Đông. Và những nhà làm chính sách ở Hoa Thịnh Đốn càng không thể tránh được những lỗi lầm nghiêm trọng, khi họ quá tự phụ về những hiểu biết của họ, nhưng trong thực tế, họ rất nghèo nàn trong kiến thức về văn minh và lịch sử Việt nam.
Dân Chủ Theo Lối Mỹ
Có một sự thật hết sức mĩa mai, các viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Mỹ luôn luôn đòi hỏi Tổng Thống mở rộng tự do, đề cao dân chủ pháp trị cho phép những đảng phái tham gia vào nội các, nhằm lôi cuốn sự ủng hộ của quần chúng về phía chính quyền. Đồng thời, chính họ lại là những người bất chấp cả những nguyên tắc căn bản của công pháp quốc tế, bí mật xử dụng quyền lực của Mỹ để lật đổ chính quyền Ông Diệm.
Thật vậy, từ năm 1954, những nhà làm chính sách của Mỹ tại Bộ Ngoại Giao nghĩ rằng họ có quyền thay đổi chính phủ Việt nam, nếu quyền lợi của nước Mỹ đòi hỏi như vậy. William C.Gibbons đã phân tích chính sách đó như sau:
Từ lúc khai sinh ra chính quyền Diệm vào năm 1954, nhiều nhà làm chính sách Mỹ đã cho rằng, trong những trường hợp nhất định nào đó, Mỹ quốc không những có quyền mà còn có trách nhiệm đem đến một sự thay đổi tại Việt nam. Đường lối nầy cũng khá phổ biến trong việc bang giao cũa Mỹ đối với chính quyền của những quốc gia khác trên thế giới, mà ở đó quyền lợi của Hoa Kỳ đòi hỏi những hành động như thế. Và để theo đuổi triết lý nầy, Hoa Kỳ đã sắp đặt và hổ trợ những cuộc đảo chánh tại Ba Tư và Guatamala để thay thế những nhà lãnh đạo của những chính phủ của các nước đó, bằng những người lãnh đạo do Hoa Kỳ chọn lựa.
(xem William C.Gibbons, quyển II, 1961-1964, tr 140-141)
Một sự thật khác cũng khá ngộ nghĩnh, các viên chức dân sự có học thức tại Bộ Ngoại Giao Mỹ thường tỏ ra thái độ bảo thủ, thực dân, khinh thường chủ quyền của các dân tộc khác. Trong khi đó, các tướng lãnh và các nhà quân sự tại Bộ Quốc Phòng lại là những người có đầu óc tiến bộ, ôn hòa, biết kính trọng chủ quyền cùa các quốc gia khác và lại am hiểu tình hình Việt Nam một cách sâu rộng hơn. Thật vậy, khi điều trần trước quốc Hội Mỹ, Thượng Nghị Sị Church đặt câu hỏi, liệu Mỹ có thể xử dụng áp lực buộc Ông Diệm phải thay đổi chính sách không? Tổng Trưởng Quốc Phòng Mỹ MacNamara trả lời:
Vâng, việc xử dụng áp lực nằm trong khả năng của chúng ta. Nhưng việc bảo đảm để [Diệm] hành động phù hợp với những điều khuyến cáo của chúng ta, nó vượt ra ngoài khả năng của chúng ta. Đây là một chính quyền độc lập và tôi nghĩ rằng thật không thích hợp để chúng ta cho rằng, đó là một thuộc địa [của chúng ta]. (xem Gibbons, op.ct., tr.192).
Trong khi đó Tướng Taylor cũng đã xét một cách chính xác về tài lãnh đạo của Tổng Thống Diệm, khi ông phát biểu trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thương Viện Mỹ vào ngày 8.10.1963:
Chúng ta cần một người cứng rắn để lãnh đạo quốc gia nầy, chúng ta cần một nhà độc tài trong thời gian chiến tranh và chúng ta đang có nhân vật đó. Quốc gia nầy đang trải qua một cuộc nội chiến và tôi nghĩ rằng cố gắng áp đặt những điều mà chúng ta gọi là những tiêu chuẩn dân chủ bình thường đối với chính quyền nầy là một điều không thực tế. (Ibid.)
Nhầm lẫn chết người
Nhưng sự khác biệt quan trọng hơn hết là những lý do thầm kín bắt nguồn từ quyền lợi của hai quốc gia. Đối với Tổng Thống Diệm, con người đã hy sinh cả cuộc đời của Ông để tranh đấu cho độc lập và chủ quyền của Quốc Gia. Đối với Ông, đó là những thứ thiêng liêng nhất, không thể bị hy sinh, không thể dùng để đổi chác bất cứ điều gì. Đối với Ông, nếu để người Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam , thì chủ quyền Quốc Gia bị xâm phạm, chính nghĩa của cuộc tranh đấu chống Cộng cũng mất… Do đó, dù có nhận bao nhiêu viện trợ của Mỹ đi nữa Miền Nam sẽ thua Cộng sản. Bài học của thực dân Pháp tại Việt Nam 1946-1954 đã cho thấy điều đó. Ông Diệm đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm đó cho Đại Sứ Nolthing biết:
Việt Nam không muốn trở thành một xứ bảo hộ [của Mỹ] (Viet Nam does not want to be a protectorate) .
Xa hơn nữa, một nhà nho như Ông Diệm được đào tạo theo một hệ thống giáo dục đặt nặng trên những giá trị đạo đức cá nhân và gia đình theo quan niệm của Khổng Tử và Ông cũng hấp thụ quan niệm dân chủ cổ điển và lý tưởng Montesquieu, Voltaire, Jean Jacques Rousseau … từ thế kỷ 19 của Pháp. Do đó, Ông Diệm rất khó hiểu được thực tế chính trị văn minh nước Mỹ, một nên văn minh chú trọng đến những quyền lợi kinh tế vật chất và thực tiễn của đời sống. Tổng Thống Diệm đã lầm lẫn khi nghĩ rằng dù có những bất đồng quan điểm với những nhà làm chính sách Mỹ, nhưng vì sự nghiệp đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ và chống Cộng chung của hai Quốc Gia, Hoa Kỳ là đồng minh mà Ông có thể dựa vào lúc chung cuộc.
Nhưng đây chính là sự lầm lẫn hết sức nghiêm trọng có lẽ đã dẫn đến cái chết của Tổng Thống Diệm. Vì cho đến lúc chết, Ông Diệm vẫn không tin rằng chính Tổng Thống Kennedy đã chính thức chấp thuận một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của Ông. Trong thực tế, nếu Ông Diệm biết cuộc đảo chính do người Mỹ sắp đặt, Ông ta nghĩ rằng đó chỉ là một số nhân viên trong chính quyền Mỹ và những nhân viên CIA chống Diệm mà thôi.
Thật vậy, chính Tổng Thống Diệm cho đến 10 giờ sáng ngày 1.11.1963, vẫn còn tin rằng chỉ có CIA Mỹ nhúng tay vào vụ đảo chánh, cho nên Ông đã phàn nàn với Đại Sứ Lodge về âm mưu đó:
Tôi biết sẽ có một cuộc đảo chánh xảy ra, nhưng tôi không biết ai sẽ thực hiện.
I know there is going to be a coup, but I don’t know who is going to do it.
(Điện văn của Tòa Đại Sứ Sài Gòn số 841 ngày 1.10.1963)
Lodge còn long trọng trả lời Tổng Thống Diệm:
Ngài có thể an tâm, nếu có bất cứ người Mỹ nào có hành động sai trái nầy, tôi sẽ trục xuất họ ra khỏi nước nầy.
(You can be sure if any American committed an impropriety, I [would] snd him out of the country. (Ibid.)
Trong khi đó, Tổng Thống Diệm đã không thể nào hiểu được rằng, chính Tổng Thống Kennedy, nhà lãnh đạo chính quyền nước Mỹ, một quốc gia thượng tôn pháp luật và dân chủ, đã chính thức chấp nhận cuộc đảo chánh để ám hại Ông.
Tóm lại, sau khi duyệt xét lại những liên hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam , cùng những khác biệt quan điểm dân chủ giữa Tổng Thống Diệm và chính quyền Kennedy ta thấy những đổ vỡ khó có thể tránh được. Và viên đạn mà các tướng lãnh Việt Nam quyết định bắn vào đầu Tổng Thống Diệm và Ông Nhu, cố vấn của Ông vào ngày 2.11.1963 đã là một sáng kiến của người Mỹ, được lưu trử trong tài liệu Hội đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ từ năm 1961, mặc dù đã được bôi xóa một cách cẩn thận. Thật vậy, trong bản lược thuật ngày 5.10.1961 gởi cho Carl Kaysen, một thành viên trong ban Tham Mưu của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Frank C.Child, một cựu nhân viên trong Phái Bộ Viện Trợ của Đại Học Tiểu Bang Michigan tại Việt Nam, đã viết:
Chỉ có một cuộc đảo chánh quân sự – hay là một viên đạn ám sát – mới thay thế quyền lãnh đạo tại Việt Nam.
Từ những dữ kiện nầy cho thấy một số giới chức tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã chuẩn bị cho cuộc đảo chánh và có ý định tiến hành một cuộc ám sát Tổng Thống Diệm từ lâu.
Và cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 bắt nguồn từ những lý do sâu xa, đó là khác biệt giữa hai nền văn hóa Đông – Tây, giữa quan niệm về Dân Chủ Tự Do, những định chế chính trị và hoàn cảnh xã hội của Quốc Gia phát triển kỷ nghệ và một Quốc Gia chậm tiến, cộng thêm với sự hiểu biết về bản tính cá nhân và mâu thuẩn quyền lợi quốc gia đã khiến nhà lãnh đạo của nước Mỹ phải chính thức quyết định một cuộc đảo chánh lật đổ vị lãnh đạo của một quốc gia gọi là Đồng Minh với họ.
Có lẽ các lãnh đạo Hoa Kỳ đã không hiểu rõ hay không đánh giá đúng mức tầm quan trọng của những khác biệt đó cho nên sau khi đã lật đổ Tổng Thống Diệm, lập lên được những chính phủ quân nhân như họ mong muốn, họ vẫn thất bại không đem đến sự ổn định và dân chủ cho dân chúng Miền Nam. Có lẽ cũng chính vì lý do đó, mà với phương tiện chiến tranh hết sức qui mô và tối tân của một siêu cường bậc nhất trên thế giới, họ đã thua cuộc chiến tranh tại phần đất nghèo nàn và nhỏ bé như Việt Nam.
Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu
THEO DÒNG SỰ KIỆN: