Vivi – Hiếu Trương
THI TẬP
TÌNH KHÚC TRĂNG CHIỀU
Thơ Vivi
Norway 30.4.2000
Tập 01
01
Sĩ nô trí đỏ đôi bờ
Xói mòn Non Nước, bơ vơ dòng đời
Vỡ bóng trăng chiều thầm lặng
Mạt tình mây chắn ngẩn ngơ
Thuyền yêu lạc bến vô bờ
Thiên thu vắt lệ đợi chờ duyên xưa
Vuốt hạt sầu đưa khép lệ
Thét sâu lời thệ năm nao
Núi nghiêng mây bạc lao xao
Lê dân hoảng thốt nghẹn ngào Thành Đô
Nộm Cỏ lô nhô múa rối
Cung vàng đỏ chói sao giăng
Trải đời tượng gỗ ngắm trăng
Vén mây vỗ gió ghẹo Hằng Nga chơi
Dẫu xác lụy đời giam giữ
Đêm đêm mài Sử trói tim
Gối đầu đá thở ngủ im
Xem hoa kết nhụy, cánh chim tung trời
02
Thời gian bóng đổ con thoi
Núi nghiêng sông cạn, trăng soi chiều tà
Hạt giống vô nhân đen đỏ
Mang vào xóa bỏ hương trinh
Xa xa non ngã bóng hình
Bên đồi trăng úa, lặng thinh gục đầu
Lẩn thẩn bể dâu qua lại
Buồn nghe mộng dại canh tàn
Vọng xa tiếng Quốc miên man
Lửng lơ ta thán, tủi ngàn hồn vong
Vách lá sương đong bỡ ngỡ
Rì rào dang dở đẩy đưa
Thằng bên ngủ giấc lưa thưa
Trở trăn hơi thở như chưa nồng nàn
Nửa giấc mơ vàng đá tạc
Về thăm mẹ gạt châu rơi
Phòng bên tiếng khóc than trời
Ngất cao liệm tắt trút hơi lìa trần
03
Hòa bình tang trắng lệ rưng
Nhà tù ngang dọc khắp rừng quê hương
Ai oán giọt sầu mi ướt
Vọng hồn non nước chiều tà
Tiếng lòng u uất xót xa
Chan qua từng cụm phố nhà thảm thê
Trước mắt u mê ruồi muỗi
Sau lưng cỏ rối lao nhao
Buồn đời gạt giọt lệ trào
Đắng cay tim gỗ bán trao cung đình
Đen tối hòa bình mục nát
Cơn đau chua chát binh đao
Đầu xanh vỡ mộng chim bao
Dân đen cạn kiệt máu đào trong veo
Chân lở mòn treo cùm nhỏ
Nằm bên góc xó mờ mờ
Tai nghe hơi thở hôn mê
Bạn tù bên cạnh lê thê hơi tàn
04
Xiêu xiêu tình đá rụng sầu
Tuổi xuân thấm lệ, mái đầu sương pha
Mái tóc xuân xanh vội bạc
Sao hàn đời mạt tình thơ
Bãi tha ma đứng bơ phờ
Ma về hôn vội, xác xơ xương sầu
Sông Núi gỗ đâu rữa mục
Mà sao sâu đục tan tành ?
Mồ hoang cỏ úa quây quanh
Mấy ai đắp mộ xây thành tri ân
Năm tháng người thân biền biệt
Như tình đoạn tuyệt vô bờ
Chợt buồn, chợt nhớ, chợt mơ
Cúi hôn đất bạc, ngẩn ngơ cõi đời
Vận mạt tình rơi tâm loạn
Khúc sông bệnh hoạn tan gia
Bàn thờ Tổ Quốc mây sa
Ngục tù trần thế, mù lòa trắng đen !
05
Ngồi tù rũ bụi phong trần
Huyệt mồ giam cấm, xui chân ngẫm đời !
Dăm đứa bạn đà lưu lạc
Lâu rồi phiêu bạc tha phương
Đứa rừng sâu uống gió sương
Đứa què khất thực thê lương qua ngày
Có những đêm dài lạnh buốt
Màng trời ôm vuốt thân tàn
Ngẫm đời nốc cạn ngày tang
Tháng tư địa ngục trần gian họa sầu
Vất vưởng đầu lâu lấp ló
Mắt hoen chẳng ngó lạc lòng
Cái cùm bán nguyệt cong cong
Rẻn ren trăn trở, đổi vòng chân tê
Đêm mộng lê thê bóng mẹ
Thời gian rớt nhẹ úa màu
Ma phương bắc, rẽ tình nhau
Núi run biển khóc, nát nhàu quê hương
Tiếp Theo
Tập 02
06
Cốc sầu đầy ắp hồn oan
Mờ đêm tù ngục, âm vang não nùng !
Đêm tối, ngày đen, thui thủi
Nằm co lui lủi ngày đêm
Sau ngày trả nợ búa kềm
Hoa yêu vỡ cánh, nhụy mềm sắc phai
Thấu rõ ươn tai vá nợ
Nhà tù hoen vỡ men tình
Còn đâu gặm nhớ bóng hình
Tiền đồn đọc lá thư xinh hẹn thề
Than oán than, hề đâu phải
Củi khô sót lại rừng già
Nợ tình mạt kiếp thây ma
Bên bờ non nước lệ pha cốc sầu
Trước cửa đầu lâu lấp ló
Nói gì nho nhỏ như thưa
Chốn tù lao mấy cho vừa
Không ngày chẳng tháng, há ưa nỗi gì
07
Ngục cấm cố, ngục khổ sai
Trẻ già vất vưởng hình hài ngóng trông
Cửa ngục tà gian lu lú
Nhà tù rừng rú khổ sai
Tuổi xuân mục nát hình hài
Mẹ thăm rơi lệ bờ vai rầu rầu
Sông núi héo sầu nghiệt ngã
Đời dân vất vả thê lương
Tim đau ruột thắt trăm đường
Khăn tang u uất, đoạn trường ly tan
Đầu bạc lang thang góc núi
Thân gầy lủi thủi tìm con
Nấm mồ chết đói héo hon
Chết cùm, chết đánh, chết mòn khảo tra
Ai oán vọng qua xóm nhỏ
Trẻ thơ đầu ngõ lệ nhòa
Ngóng cha “lao cải” vắng nhà
Ngục tù Mao Mác, trầm kha đọa đày
08
Xót xa Gia Quốc gầy nô
Tuổi xanh khâm liệm đáy mồ vô nhân
Nước vỡ thú rừng hí hố
Thành đô lố nhố khăn tang
Ngẫm đời soi ánh trăng hàn
Gối đầu hoang mộ, xót tràn lê thê
Nửa ánh trăng thề dang dở
Tàn canh mây vỡ lang thang
Vọng xa tiếng Quốc miên man
Bơ vơ khắc khoải nghĩa trang lạc loài
Lơ lửng hình hài thơ thẩn
Nhớ ai ngớ ngẩn một mình
Dường như nhớ một bóng hình
Bên đồi núi bạc, lặng thinh nghẹn ngào
Đời mạt lệ trào lạnh ngắt
Nhà tù mọc khắp rừng xanh
Tiếng cười đao phủ lạnh tanh
Gông cùm máu đọng, tơ mành tuổi xuân
09
Rừng xanh đất thắm máu hồng
Bức tranh trần ngục Tiên Rồng là đây
Chính sách ngoại lai đen mỏ
Đốt thân lính nhỏ điêu tàn
Rừng sâu nước độc cơ hàn
Thú nhân cuồng tính dã man vô lường
Hành hạ thê lương “lao động”
Bên đồi gió lộng sương hàn
Đầu cây, đầu sung, sài lang
Đánh đâm xương thịt, máu tràn bầm đen
Thân gục nằm ven rừng rậm
Trời buồn trải đậm màng sương
Phủ lên xác máu đoạn trường
Tù binh giấu lệ đau thương não nùng
Cờ đỏ xưng hùng mắt trố
Giết tù máu đổ lạnh tanh
Gốp phần máu đỏ đầu xanh
Nhuộm lên đỏ ối bức tranh ngục trần
10
Tù binh giữa buổi thanh bình
Mồ hoang chết đói, thân hình phù du
Mỗi bữa ăn lưng sét chén
Lát mì len lén hạt cơm
Mùi thơm ghen vị đắng hờn
Nghẹn ngào nuốt vội, qua cơn tù đày
Nước muối đong vay mằn mặn
Lênh đênh ruồi nhặng bềnh bồng
Bữa ăn vài muỗng nhạt hồng
Giòi nằm nghiêng ngửa, oán nồng thú nhân
Đời bạc phù vân đen đỏ
Chén cơm mì vỏ trộn vào
Máu khô da thịt xanh xao
Giống nòi mạt kiếp, hư hao vô ngần
Ai thấu, ai cần, ai biết
Thân tù chém giết đánh băm
Cho ăn tạm sống để dằm
Tù binh đất Cộng, tối tăm cuộc đời
Tập 03
11
Đảng vô xây dựng nhà ô
Ngổn ngang rừng rú, lô nhô phố phường
Ô cấm mờ mờ hôi thối
Ngày đêm loài muỗi rỉ rên
Nằm cong queo ngủ buồn tênh
Thả hồn thoát ngục, ngông nghênh với trời
Vô đó cuộc đời vắt bỏ
Chân cùm, xô nhỏ kề bên
Ô cao ba thước đo lên
Chiều ngang một thước, lại thêm hai dài
Mỗi tháng ra ngoài tắm rửa
Cai tù canh cửa nhăn nhô
Chưa đầy ba phút đuổi vô
Tình người khâm liệm đáy mồ trần gian
Mao Mác lang thang dạo ngục
Cháu Hồ cả chục hầu bên
Cái cùm trằn trọc thở rên
Giật mình thức giấc, oan đền mộng tan
12
U hồn lệnh kẻng u hồn
Cuộc đời “Lao Cải” mồ chôn đỉnh sầu
Tiếng kẻng u hồn réo gọi
Tù binh thức vội lao nô
Còng lưng “lao động” ô hô
Thân như trâu ngựa, đảng hồ vinh quang
Bệnh tật thuốc thang chẳng có
Bắt cày chết bỏ bón phân
Cờ sao nào có lòng nhân
Con người thờ cộng, dã tâm tuyệt vời
Cải tạo liệm đời phế bỏ
Thờ hồ rao mỏ khoan hồng
Rừng sâu xương thịt chất chồng
Mồ hoang mọc khắp núi sông lạnh lùng
Tiếng kẻng hung hung máu đỏ
Nấm mồ úa cỏ xanh xao
Xót nghe bi kiếp ngục trào
Lệ thiên đỉnh ý, sóng gào chân mây !
13
Nồi da xáo thịt tanh tanh
Lao xao tù mộ, rừng xanh úa màu
Bãi mộ tù binh non cỏ
Bên đồi đất đỏ ngổn ngang
Đêm đêm tiếng thét dở dang
Núi nghiêng u uất, mây tang úa trời
Cờ đỏ phủ đời tăm tối
Nấm mồ oan tội kinh mang
Đầu xanh mạt kiếp ngỡ ngàng
Chia lìa duyên nợ, hai hàng âm dương
Mờ sáng mù sương dày đặc
Mẹ già ôm chặt thân mồ
Khóc than ai oán đời nô
Đá buồn nhỏ lệ, cỏ khô nghẹn ngào
Hóc núi lao nhao sỏi cát
Huyệt đào chôn xác tù quân
Nửa manh chiếu rách bó thân
Rợn nghe hí hố, thú nhân reo cười
14
Bể dâu đá vỡ nụ hồng
Hồ linh lông hỷ nhập mồ tù lao
Chế độ “Vinh quang” cờ đỏ
Trại tù khắp ngõ rừng sâu
Nắng mưa giông tố dãi dầu
Đồi tranh bãi sậy, chất sầu bi ai
Đày đọa khổ sai “Lao động”
Cờ sao máu lộng núi nghiêng
Búa liềm bám giữ gông xiềng
Mị tâm trù dập, đảo điên giống nòi
Núi bạc vạn đồi rẽ lối
Thân tù hấp hối hồn tan
Xanh xương, da bủng, mắt vàng
Oằn lưng trâu ngựa, máu hàn thây ma
Cải tạo “Trút tà” hối cải
Ngày đêm lải nhải đảng loa
Mù lòa tim óc mù lòa
Buồn nghe sông núi, vàng hao đá sầu
15
Trời nam họa kiếp sao nô
Lê dân mồ liệm, non sông lệ hàn
Lê ánh trăng tù nước mạt
Nửa treo núi bạc lệ hồng
Nửa nằm lơ lửng đầu sông
Như nàng thiếu phụ, ngóng chồng tù lao
Nước đục vàng sao vận trở
Đời tù tắt thở giữa chừng
Mồ hoang hương khói lệ rưng
Hồn ru giấc ngủ bên rừng phù vân
Bi kiếp lê dân đen tối
Trăng chiều le lói non khờ
Trăn năm bia đá phai mờ
Buồn vay nửa tấm ngẩn ngơ bia đời
Cả nước tình rơi lận đận
Một mình thơ thẩn một mình
Vỡ đàn nước bạc lạc tình
Đêm tù vắt lệ tưới hình nước non
(Còn tiếp)
Tập 04
16
Nửa đêm tù ngục mộng vàng
Về thăm cha mẹ, khăn tang trắng đầu
Đêm ngủ cong queo sàng cát
Nửa manh chiếu nát cơ hàn
Buồn ru giấc ngủ mộng vàng
Sau ngày “cày rẫy”, thân tàn khổ sai
Sương núi lạnh cài đêm vắng
Vành tang tóc trắng thẩn thờ
Quầng thâm mắt Mẹ đợi chờ
Con về trong mộng, từ bờ sậy lau
Nhắm mắt lòng đau chẳng ngủ
Mơ màng tự nhủ đời rên
Mộng về khấp khởi miếu đền
Vong linh vượt ngục về bên Mẹ hiền
Hoang dã rừng thiêng kiếp vượn
Đời tù thân lượn bóng ma
Xiềng gông, liềm búa bằm tra
Bạn nằm bên cạnh lìa xa dương trần !
17
Tình nhà, nợ nước triền miên
Thân con rục rũ, Mẹ hiền lệ ru
Da bủng mắt vàng tái mét
Kinh niên sốt rét xanh xao
Thuốc thang chẳng có viên nào
Lâu lâu mẹ đến, lệ trào núi xiêu
Vạt nắng ngã chiều góc núi
Mẹ già thui thủi quay về
Giọt sầu rơi rụng não nề
Rớt theo từng bước lê thê vô hồn
Cúi mặt lặng trông bóng mẹ
Bạc đầu thân nhẹ héo hon
Bước xiêu giữa lối cỏ mòn
Tình nhà nợ nước đời con báo đền
Quà Mẹ kênh kênh bươi xới
Xẻ băm hồ hởi xé dằm
Xới tung những món đồ thăm
Trút đầy thù hận căm căm trả thù
18
Chốn lao tù, huyệt tam vô
Mán, Mường cờ đỏ ô hô hốt hồn
Thân xác máu khô da tái
Đầu xanh tóc lại sương pha
Đêm về lảng vảng bóng ma
Cúi hôn mồ địa úa tàn tuổi xuân
Lâu lắm người thân biền biệt
Mẹ cha chẳng biết sống còn
Chết tra tấn, hay chết mòn
Chết sầu u uất, héo hon tuổi đời
Hơi thở mạt thời núi lỡ
Men tình dang dở bạc mồ
Chôn sâu đáy huyệt”Tam Vô”
Nào ai há thấu “Cơ Đồ” nô gian
Phó mặc thân tàn mắt lõ
Bỏ đời chả ngó lặng thinh
Mặc cho ma quỉ rập rình
Vắt thề thanh thản tự tình gió mây
19
Gió gào, rừng khóc oán than
Xót thương tù ngục máu hàn sử đau
Hừng sáng mưa rừng lành lạnh
Xác tù hiu quạnh nằm queo
Bên đồi tranh cỏ vắng teo
Không cha, chẳng mẹ, cheo leo kiến bò
Lải nhải lò mò cuốc xẻng
Dăm tên lẻng kẻng huyệt đào
Máu khô ướp xác lấp vào
Sâu ba tấc đất, gió gào hốt than
Thảm khốc dội vang hóc núi
Đoàn tù lủi thủi dưới mưa
AK hăm hở đánh bừa
Đứa lăn, đứa gục, vẫn chưa hài lòng
Thân tù ốm tong ngất quị
Lũ người dạ quỷ dằm băm
Hồi lâu hơi thở biệt tăm
Hồn nương rừng rú về thăm Mẹ già
20
Cửa ngục đỏ, đón tết về
Mồ rên quỉ lộng, não nề trời nam
Ngày tết về nơi rừng rú
Kiếp người cầm thú nào vui
Phần ăn miếng thịt đen thui
Bầy nhầy, gân mỡ, sụt sùi lệ chan
Tiếng pháo mơ màng mộng mị
Giao thừa khép kỹ mồ sâu
Đêm xuân gió thở rầu rầu
Cùm gông ai oán, đầu lâu trở mình
Lạnh ngắt bóng hình máu rỉ
Bên mồ thủ thỉ sâu đêm
Hỏi nhau ngày tết có thêm
Bao nhiêu mộ mới, khắc tên lìa trần
Thần chết tần ngần trước cửa
Hồn ai sắp sửa gọi ra
Ba ngày tết cũng chẳng tha
Chết bệnh chết đói, khảo tra dập trù
(Còn tiếp)
Tập 5
21
Kim Sơn, Nước Nhóc, Nghĩa Điền
An Trường, Vĩnh Thạnh, Mẹ hiền xót xa
K18 chìm sâu hóc núi
Bên bờ con suối máu loang
Ngổn ngang xương sọ bỏ hoang
Đêm khuya thét rú, hồn oan não nùng
Đầu súng hung hung tanh tưởi
Mủ khô, thịt rữa, máu bầm
Tù binh thân xác nát bâm
Bón phân tranh cỏ, vong thân lạc mồ
Loạn tính hi hô mặt khỉ
Nhân loài súc quỉ ma dương
Rập rình trước cửa quanh tường
Hốt hồn cướp xác, tình thương mù loà
Lệ suối vỡ oà tuôn đổ
Tấm thân khốn khổ kiếp tù
Đảng gieo mầm độc oán thù
Giống nòi oán hận nghìn thu chất chồng
22
Mộ tù tranh cỏ úa mòn
Bơ vơ đầu bạc, héo hon đá sầu
Suối nhỏ cạnh bên bãi cỏ
Ngổn ngang đất đỏ mồ hoang
Sương chiều đầu bạc lang thang
Đếm từng nấm mộ, lệ tràn đồi non
Dáng mẹ gầy còm khốn khổ
Quì bên nấm mộ cỏ khô
Oán than ai dựng cơ đồ ?
Rừng sâu tràn ngập nấm mồ thân trai
Chim quạ thở dài nhè nhẹ
Buồn theo lời mẹ khấn cầu
Vong linh con trẻ nơi đâu
Hãy về với mẹ, rừng sâu giã từ
Dã thú gầm gừ hung tợn
AK mắt trợn hỏi tra
Nơi đây khu cấm hãy ra
Chần chừ bỏ mạng làm ma không đầu
23
Mạt thế đời, kiếp ma dương
Ba Đình tụ mặt Mán Mường lên ngôi
Lao động cả ngày quằn quại
Đêm ngồi lải nhải hát ca
Tôn vinh “cờ đỏ” ngâm nga
Tụng hô “bác đảng “, gian tà mỵ dân
Vượn hú sương dần bao phủ
Thân tù mệt rũ thở dài
AK đầu súng quái thai
Tra vô xương sống, bả vai quay tròn
Tủi nhục nước mòn uất tận
Rửa đời trút hận từ trần
Nước sôi sùng sục gởi thân
Hô to đả đảo thú nhân đảng hồ
Nón cối hi hô xúm lại
Xác người thảm hại nằm queo
Mắt tù lệ đọng buồn theo
Tiễn hồn thanh thản ngọn đèo chân mây
24
Thăm con lặng lội rừng sâu
Mắt nhìn chưa kịp, gạt sầu chia ly
Tổng trại quân khu năm mộc
Từ ngày tàn độc đảng tru
Tù binh thân xác dập trù
Như loài sâu bọ, mịt mù khổ sai
Lòng Mẹ thở dài cô lẻ
Thăm con lạnh tẻ chiều nao
Con héo hon, lệ Mẹ trào
Rớt trên manh áo xanh xao da vàng
Bóng ngã chiều tàn sau núi
Mẹ ngồi lầm lũi ngóng chừng
Gặp con nửa khóc nửa mừng
AK gào thét bừng bừng sát nhân
Tay mẹ âm thầm quẹt lệ
Giọt sầu tuôn nhẹ bờ mi
Nhìn con chưa kịp hỏi gì
Mẹ con đành phải chia ly đôi đường !
25
Cùm gông tra hỏi hạch hoài
Những lời lải nhải như loài sủa ma
Tội ác tự khai đen đỏ
Trận to trận nhỏ phải khai
Hành quân thời hạn ngắn dài
Truy lùng càn quét lai rai khai hoài
Đảng thét miệt mài xối xả
Âm hồn ra rả ngày đêm
Bắn bao “bộ đội” khai thêm
Pháo binh cày nát, nổ rền chiến khu
Lải nhải đảng tru đảng hạch
Khai nhanh khai sạch khai thông
Bao lần vây chặt lập công
Bao lần khai quật hầm chông bãi mìn
Đen tối cực hình đảng trói
Tội là chống đối “bác hồ”
Tội là chẳng phục tam vô
Ngụy quân một lũ đào mồ hãy khai !
(Còn tiếp)
Tập 6
26
Đời lính tội ác có chi
Lờ mờ hỏi mãi, ngu si cả bầy
Tội lính khai hoài chẳng hết
Nào là lê lết hành quân
Nào là truy diệt gian thần
Đảng rao tội đó bất nhân lạ lùng
Đảng nói hung hung tra hỏi
Lính khai mệt mỏi đạn lòng
Tội chi đời lính cong cong
Sa trường lửa đạn, nào mong sinh tồn
Huyệt đỏ chờ chôn xác nhỏ
Khỉ người tâm đỏ tri hô
Đỏ lòng lải nhải lũ nô
Xót thương cây Quế lô nhô Mán Mường
Tang trắng đau thương Núi lở
Thuyền đời sóng vỡ Sông Tương
Liệm sầu vắt nợ đoạn trường
Vô tâm gieo oán, bất lương hiện hình
27
Ác ma sĩ cộng thờ Hồ
Tru đày cùng giống, ô hô rước Tàu
Tra tấn pháp trường rừng rú
Giết người như thú ác lai
Hố ngồi, hố đứng, hố dài
Búa kềm, dây trói, kẽm gai, súng trường
Tù sống đoạn trường tăm tối
Xác thân hấp hối vô hồn
Chết manh chiếu rách hầm chôn
Sậy lau than khóc, gió hôn rì rào
Hành hạ máu đào vắt cạn
Đày cho bệnh hoạn bủng vàng
Hổ nhìn chẳng muốn hỏi han
Ăn chi xương trắng, thịt tan há còn
Đời lính sống mòn chết dở
Từ khi Núi lở Sông khô
Đó ngày “quỉ đỏ” đội mồ
Rước Ma phương bắc tràn vô dập trù
28
Văn minh rợ đỏ tự xưng
“Đỉnh cao trí tuệ” tưng bừng tung hô
Một sáng sương phơi ngọn cỏ
Tù binh nhóm nhỏ trồng rau
Bên bờ con suối cùng nhau
Kẻ trồng người tưới phân màu vàng tươi
Nồng nặc phân người hôi thối
Ngo ngoe giòi đói giòi no
Cục khô cục ướt ốm o
Giòi rằn đen trắng, lăn bò lao nhao
Phân đổ đầy vào thùng nước
Khúc cây lần lượt khuấy tan
Mặc cho giòi cứt oán than
Quậy đều nát bấy, thau vàng như nhau
“Quản giáo” mặt cau cầm súng
Thẳng tay đâm thủng vô sường
Mồm thét “phân bắc” ngàn thương
Dùng tay bóp nhuyễn cho tường “vinh quang”
29
Nước non mạt vận đoạn trường
Đành ôm khúc sử thê lương qua ngày
Tắt nắng hoàng hôn buông phủ
Trăng chiều bóng ủ mây đen
Nhởn nhơ giun dế đê hèn
Hoan hô hí hố, bon chen thi tài
Mạt vận thở dài qua bữa
Rõ mày thử lửa vàng thau
Nào đâu hương vị thấm đau
Thức khuya mới tỏ, xé nhau sinh tồn
Đói khổ cùm hồn cảm hóa
Tim khô lưỡi gỗ vô nhân
Thói đời bèo bọt phù vân
Đời ma lừa dối, người thân há chừa
Đầu núi lưa thưa sương trắng
Giữa trời hoang vắng thê lương
Khổ sai đành vuốt đoạn trường
Bể dâu tang trắng, quê hương não nùng
30
Sĩ phu “cờ đỏ” lô nhô
Ngu dân hiến Nước, quì nô giặc Tàu
Vận Nước mạt thời tang phủ
Thấm sâu thân rũ tù binh
Hoà bình thù hận điêu linh
Xích xiềng Mao-Mác, cực hình khảo tra
Hình bóng Sơn Hà tận khuyết
Đong đầy lệ huyết thê lương
Hết bom khói lửa chiến trường
Nhà tù mọc khắp quê hương tan tành
Tử khí mưa tanh gió chướng
Ảo tâm tứ hướng bủa vây
Thân tù chuốc nhục đọa đầy
Bên bờ huyệt lạnh, cỏ xây liệm sầu
Núi đứng gục đầu trầm lặng
Xót xa ngục tối thế gian
Đổi đời “cờ đỏ” độc tàn
Đêm đêm Quốc vọng “Cờ Vàng” rũ đau !
Norway 30.4.2000
* * * * * *
Còn tiếp