Hòa đàm Paris : VN và các cường quốc

1cauhienluz99

Hòa đàm Paris : VN và các cường quốc

Cập nhật: 11:48 GMT – thứ ba, 22 tháng 1, 2013

Bốn mươi năm sau khi Hòa đàm Paris nhằm ‘chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam’ được ký kết (27/1/1973-2013), giới chuyên gia tiếp tục đánh giá ý nghĩa, diễn biến, cũng như các hệ quả của hiệp định.

Sử gia Vũ Minh Giang, chuyên gia khu vực học và nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam cho rằng ‘hiệp định Paris chỉ là một cách thức để kết thúc chiến tranh’ nhưng không nhất thiết ‘mang lại hòa bình.’

Ông nói: “Tôi nói đây là một cách thức kết thúc chiến tranh, nhưng không ai ảo tưởng rằng có một hiệp định đem lại sự vui vẻ cho hai bên tham chiến. Điều ấy là không bao giờ có.

“Đấy là một phản ánh tương quan lực lượng và vì vậy cho nên ký như thế, vì người ta không thể làm khác, nhưng trong thâm tâm, cả mấy bên tham chiến, trong thâm tâm đều muốn mình giành một thắng lợi trọn vẹn hơn.

“Cái đó là đương nhiên và tôi cho đó là quy luật của chiến tranh. Cái ký kết ấy không phải là quy luật của hòa bình. Cái đó là cách thức kết thúc chiến tranh và vì vậy nó vẫn nằm trong sự điều hành, tác động của quy luật chiến tranh.

“Có nghĩa là ký thì ký như vậy, nhưng để đạt được mục tiêu của mình, mỗi bên đều có một cố gắng nào đó để đạt được kết quả cao nhất như mình mong muốn. Và vì vậy ở đây như thể là một tình trạng tạm dừng cuộc chiến ở đó…”

Một sử gia khác từ trong nước, ông Vũ Quang Hiển, Phó Giáo sư lịch sử Đảng thuộc Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, giữ quan điểm nhấn mạnh rằng Hiệp định Paris năm 1973 là ‘một thắng lợi của quân và dân Việt Nam’ với mục đích ‘đánh cho Mỹ cút’ để tiến tới làm cho ‘Ngụy nhào’, như cách ông trả lời BBC nhân dịp 40 năm Hòa đàm Paris.

Cựu đại sứ Việt Nam Công Hòa, ông Bùi Diễm, hiện định cư tại Hoa Kỳ phản bác một số ý kiến nói chính Chính quyền Sài Gòn đã ‘vi phạm hiệp định’.

Người từng là quan sát viên do Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chỉ định tại Hòa đàm Paris, ông Bùi Diễm nói với BBC vào tháng 1/2013:

“Nếu nói chính quyền ở miền Nam Việt Nam đã vi phạm hiệp định Ba-Lê là quá đáng là bởi vì sự thực ra những người ở miền Bắc đã chủ trương rõ rệt là để lại, mà họ đã làm được việc đó qua Hiệp định Ba-Lê, là giữ lại một số quân của họ ở trong miền Nam.”

Còn nhà báo Harish Mehta, cựu phóng viên Đông Nam Á cho Busines Times (1987 – 2003) nêu ra đánh giá về vị thế của Sài Gòn sau Hòa đàm Paris:

“Hiệp định hòa bình tạo ra người thắng, kẻ thua rõ ràng. Hoa Kỳ thoát khỏi cuộc chiến và lấy lại tù binh. Hà Nội thôi bị đánh bom, nhưng ông Thiệu chẳng được gì. Tháng Sáu 1973, Quốc hội Mỹ thông qua luật ngay lập tức ngừng đánh bom Campuchia, và chấm dứt mọi hoạt động quân sự của Mỹ ở Đông Dương,”

“Tháng 11 năm đó, Quốc hội Mỹ thông qua luật buộc tổng thống báo cho Quốc hội trong vòng 48 tiếng quyết định điều quân Mỹ trong chiến tranh, và triệt thoái trong vòng 60 ngày nếu không có phép của Quốc hội. Hai biện pháp này đã khiến Nixon không còn khả năng can thiệp ở Đông Dương.”

“…Bị cô lập, chính thể Sài Gòn ở trên bờ vực sụp đổ kinh tế…”

“Sau chót, chiến lược kiềm chế chủ nghĩa cộng sản ở miền Bắc của Mỹ thất bại thảm hại, vì đa phần nông thôn miền Nam đã do cách mạng nắm giữ, và năm 1975 thì cả nước nằm dưới sự kiểm soát của người cộng sản.”

Sử gia thiên tả người Canana, ông Gabriel Kolko đặt vấn đề:

“Đối với Tổng thống Hoa Kỳ, ông Richard Nixon, và cố vấn an ninh quốc gia của ông, ông Henry Kissinger, thì Hiệp định Paris đem lại cho họ thời gian mà họ hy vọng sẽ thắng trong cuộc chiến tranh Việt Nam bằng cách nói với Trung Quốc và Nga, hai quốc gia đang bắt đầu chia rẽ sâu sắc, rằng nếu họ không hợp tác với Hoa Kỳ bằng cách cắt viện trợ quân sự cho phe Cộng Sản Việt Nam, thì Hoa Kỳ sẽ thực hiện các biện pháp tăng cường cho kẻ thù Cộng Sản của họ, và như vậy đe dọa sẽ dùng chính hai quốc gia cộng sản lớn này đối chọi lẫn vào nhau – được gọi là “đòn tay ba”.

Nhưng Phó Giáo sư Vũ Quang Hiển từ Hà Nội cho rằng Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đồng minh Mặt trận Dân tộc hay Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam đã ‘rút kinh nghiệm’ từ Hiệp định Geneve và ‘chủ động hơn’, cũng như không chịu tác động của các cường quốc.

Tuy nhiên sử gia Vũ Minh Giang, từ Đại học Quốc gia Hà Nội nói ‘các sự kiện có liên quan tới nhau’ khi nói về các đợt không kích của không quân Mỹ trong quá trình hai bên đàm phán, kể cả tới sự kiện Trung Quốc tấn chiếm Hoàng Sa một năm sau Hiệp định. Ông cũng cho rằng ‘các nước lớn’ đều có toan tính riêng của họ.

Giáo sư gốc Trung Quốc Lý Hiểu Binh từ Hoa Kỳ cho rằng trong giai đoạn 1968-1973 đã có sự dịch chuyển lớn trong quan hệ Trung – Xô và tác động của nó đến cuộc chiến tại Việt Nam khi đó và rộng hơn là Chiến tranh Lạnh.

Theo ông, giao ước Mỹ – Trung đã tạo ra thay đổi bước ngoặt trong thế chiến lược giữa hai cường quốc là Liên Xô và Hoa Kỳ thời Chiến tranh Lạnh.

Nếu như các nhà hoạch định chính sách ở Washington thấy nhờ đó mà việc tập trung nguồn lực và quan tâm chiến lược của Mỹ vào đối phó với Liên Xô dễ dàng hơn, Liên Xô lại coi việc phải đương đầu cùng lúc với Phương Tây và Trung Quốc là chuyện khiến sức mạnh của họ bị phân tán nghiêm trọng, theo ý kiến ông Lý Hiểu Binh nói với BBC.

Ông cũng xác nhận rằng một năm sau Hòa đàm Paris ký kết, sau khi xảy ra trận Hải chiến Hoàng Sa (Tây Sa), các lãnh đạo quân sự Trung Quốc Diệp Kiếm Anh, Đặng Tiểu Bình và Tô Chấn Hoa đã báo cáo lên Mao Trạch Đông và đề nghị Trung Quốc chiếm nốt các đảo do Nam Việt Nam kiểm soát và Mao đã đồng ý.

Chủ đề liên quan

nguon

Advertisement

3 thoughts on “Hòa đàm Paris : VN và các cường quốc

  1. Tiếp theo Hòa Đàm Paris trên

    Bốn mươi năm sau khi Hòa đàm Paris nhằm ‘chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam’ được ký kết (27/1/1973-2013), giới chuyên gia tiếp tục đánh giá ý nghĩa, diễn biến, cũng như các hệ quả của hiệp định.

    Nhìn từ Bắc Kinh

    Theo Giáo sư Lý Hiểu Binh, từ Đại học Oklahoma, Hoa Kỳ thì có một sự thay đổi chiến lược trong tư duy của Trung Quốc năm 1968. Bắc Kinh không tham gia hội đàm ở Paris còn Moscow, trái lại, luôn hào hứng ủng hộ đàm phán. Bắc Việt Nam bắt đầu dịch chuyển lại gần Liên Xô.

    “Cùng thời gian ban lãnh đạo Trung Quốc bắt đầu cảm thấy có bằng chứng rằng Hoa Kỳ đã là cường quốc mất dần ảnh hưởng vì thất bại của họ tại Việt Nam, trong khi Liên Xô lại chiếm ngay ‘khoảng trống quyền lực’ đó và bắt đầu thay chân Mỹ để thành ‘đế quốc xâm lăng’,”

    “Vào tháng 3/1969, theo thỏa thuận với Hà Nội, Quân Giải phóng Trung Quốc bắt đầu rút về, giảm dần từ 16 sư đoàn, gồm 150 nghìn quân, xuống không còn đơn vị phòng không nào ở Bắc Việt Nam vào tháng 7/1970.”
    “Sau khi Trung Quốc rút quân khỏi Việt Nam và giảm viện trợ cho Hà Nội, Liên Xô ngay lập tức bù vào chỗ trống và còn tiếp tục hỗ trợ kinh tế, quân sự cho Bắc Việt Nam. Từ 1969 đến 1971, Moscow ký bảy hiệp định viện trợ cho Hà Nội. Năm 1972, Liên Xô tiếp tục tăng cường hệ thống phòng thủ bằng tên lửa ở Bắc Việt Nam.”

    Nhìn từ Bắc Kinh, theo Giáo sư Lý Hiểu Binh, tác giả các bài và sách về quân đội Trung Quốc, cam kết hỗ trợ liên tục cho cuộc chiến tranh tại Đông Dương của Moscow làm hao hụt nguồn lực của Liên Xô. Ngoài ra, mối đe dọa từ Liên Xô đã thúc đẩy lãnh đạo Trung Quốc cải thiện quan hệ với Hoa Kỳ. Nhu cầu chiến lược này cuối cùng đã đưa tới chỗ bình thường hóa quan hệ Mỹ – Trung vào nửa đầu thập niên 1970.

    Nhìn từ phe Mặt Trận

    Với tư cách người quan sát trong cuộc, nhà nghiên cứu Lữ Phương, cựu thành viên Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam, một bên ký kết Hiệp định, cho rằng các vi phạm đã làm ảnh hưởng tới các mục đích, mục tiêu mà ban đầu cuộc hòa đàm nhắm tới.

    Ông xác nhận trong việc thực thi Hiệp định, cả hai phía Cộng sản Bắc Việt cùng đồng minh Mặt trận Dân tộc và Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đều ‘vi phạm’ nhưng cho rằng Chính quyền của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu đã vi phạm trước, còn phe cộng sản Bắc Việt khi tiến chiếm ‘giải phóng’ miền Nam, đã có vi phạm nghiêm trọng khác khi loại bỏ các cơ chế ‘hòa giải dân tộc’ và bỏ qua ‘chính phủ ba thành phần’ với vai trò của ‘lực lượng thứ ba.’

    Ông nói: “Sau Hiệp định Paris 1973, có một thời kỳ bên Mặt trận họ khựng lại, tất cả các cuộc hành quân đều ngưng lại cả và lo các việc trao đổi tù binh… Lúc bấy giờ có một bức thư của ông Lê Duẩn gọi là ‘thư về hòa giải’ và Liên minh của chúng tôi trong Chính phủ (Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam) được lập ra để chuẩn bị một phương án hòa giải… Ở trong đó, người ta có tính một giải pháp hòa giải mà lịch sử đã chứng mình.

    “Nhưng sau đó, Chính phủ Sài Gòn lấn tới rất dữ dội, nên ở trong đó anh em (Mặt trận Dân tộc) đặt vấn đề là hòa hay chiến, chiến tranh hay không chiến tranh, bây giờ nếu mình lùi như thế này hoài thì mất hết… tất cả những vùng gọi là bình định cấp tốc, cắm cờ v.v… Bấy giờ người ta mới ngồi lại và bàn bây giờ phải chống trả trở lại và không để tình trạng này kéo dài được mãi.”

    Ông Lữ Phương nói phe Cộng sản Bắc Việt và đồng minh Mặt Trận Dân Tộc ở miền Nam đã ‘tương kế tựu kế’ và lựa chọn thời điểm không có ‘dấu hiệu người Mỹ trở lại’ để tấn công và sau đó ‘thanh toán,’ ‘dứt điểm’ đối phương.

    Nhà nghiên cứu này kết luận: “Chiến lược là như vậy, cho nên thực sự là hai bên đều vi phạm hết. Nhưng trong chiến tranh, giải pháp xấu đối với Cộng sản vẫn là giải pháp hòa giải, giải pháp ‘không ăn hết.’ Bấy giờ cái hay nhất là tiến tới ‘ăn cho gọn luôn,’ chứ không để kéo dài lằng nhằng, rồi đấu tranh chính trị, rất mệt mỏi. Logic của vấn đề được hiểu là như vậy.”

    Bài học là gì?

    Giáo sư Ngô Vĩnh Long, sử gia từ Đại học Main, Hoa Kỳ cho rằng Hòa đàm Paris 1973 là một bài học mà thế giới cần rút kinh nghiệm khi nó không thể tránh được hệ quả với các phe ký kết ‘sử dụng đường lối chiến tranh’ để chấm dứt cuộc chiến và qua đó để lại hậu quả lâu dài.
    Ông nói: “Hiệp định Paris là một sự nhân nhượng của các bên… Tất cả các bên đều nhân nhượng thì mới có tể có thỏa hiệp. Vấn đề không phải nằm ở chỗ nhân nhượng ở trên bàn hội nghị, mà vấn đề là sau khi có Hiệp định rồi, thì thi hành là như thế nào.

    “Trong hai năm từ khi Hiệp định được ký cho đến khi miền Nam bị mất bằng đường lối quân sự, hay nói cách khác, Chính phủ Sài Gòn bị thua bằng đường lối quân sự, thì chúng ta có thời gian khoảng hai năm để thi hành Hiệp định Paris để tránh việc bên này thua, hay bên kia thắng bằng đường lối quân sự'”

    “Vấn đề quan trọng ở đây là thua hay thắng bằng đường lối quân sự sẽ có ảnh hưởng rất lâu, sau này, khi cái gọi là hòa bình được thiết lập. Cho nên đây là vấn đề rất quan trọng mà nhiều người phải nghĩ lại, không để cho một cuộc chiến kết thúc thắng thua bằng đường lối quân sự.”

    Và ông đưa ra một kết luận ở góc nhìn này:
    “Trong vấn đề hòa đàm, vấn đề hậu chiến tranh, chúng ta cần nhìn kinh nghiệm của các hòa đàm khác trong lịch sử trên thế giới và sau chiến tranh, thì lúc đó mới có thể đánh giá được. Còn nếu đánh giá về phía của mình, tức là bên thắng cuộc hay là bên thua cuộc, thì tôi nghĩ là không đủ.”

    Còn sử gia Dương Trung Quốc từ Hà Nội thì cho rằng sau khi có một “nước Việt Nam thống nhất,” Hoa Kỳ và Trung Quốc tiếp tục có hành vi “bao vây” Việt Nam, với Trung Quốc thậm chí đã tiến hành chiến tranh ở Biên giới phía Bắc Việt Nam, còn Hoa Kỳ “đứng sau lưng Pol Pot”.

    Ông Dương Trung Quốc nhấn mạnh bài học lớn nhất mà Việt Nam cần rút ra là Việt Nam cần “tự mình định đoạt số phận của mình” vì theo ông “chừng nào không giữ được độc lập, tự chủ” thì chừng đó “khó đạt được mục tiêu của mình.”

    Ông cũng cho rằng không nên coi Hiệp định Paris 1973 là một văn bản “có giá trị vĩnh cửu”.

  2. ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & PHẠM VĂN ĐỒNG

    Người chuyển bài: Nguyễn Kim Khánh Tác giả: Bùi Anh Trinh Ngày 2015.11.30

    TT Mỹ NIXON

    Năm 1973, ngày 7.2, mười một ngày sau khi ký kết Hiệp Định Paris, Kissinger lên đường đi Hà Nội. Tại Hà Nội Kissinger trao cho Phạm văn Đồng một công hàm của Tổng Thống Nixon, trong đó quy định thể thức thanh toán số tiền bồi thường chiến tranh cho Hà Nội là 4,75 tỷ USD. Sau đó Thủ Tướng cộng sản Việt Nam Phạm văn Đồng giao cho Kissinger mang về cho Tổng Thống Hoa Kỳ một công hàm hoan nghênh tinh thần Mật ước của Nixon và hứa sẽ thi hành nghiêm chỉnh Mật ước này. Như vậy là Mật ước đã có đủ chữ ký của cả hai người cầm đầu chính phủ. (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris)
    Nguyên văn Mật ước:
    Ngày 1 tháng 2 năm 1973.
    Tổng Thống thông báo cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa những nguyên tắc sẽ chỉ đạo sự tham gia của Hoa Kỳ về việc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt Nam. Như đã nêu trong Điều 21 của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973, Hoa Kỳ thực hiện sự tham gia này theo chính sách truyền thống của mình.
    Những nguyên tắc đó là:
    1.- Hoa Kỳ sẽ đóng góp xây dựng lại Bắc Việt sau chiến tranh mà không cần một đòi hỏi chính trị nào.
    2.- Con số cam kết sơ khởi là 3,25 tỷ Dollars viện trợ không hoàn lại trong vòng 5 năm. Những hình thức viện trợ khác (viện trợ phát triển kinh tế) sẽ được nghiên cứu sau.
    3.- Công việc điều hành kế hoạch viện trợ sẽ do một Ủy Ban được đặt tên là Ủy ban hỗn hợp kinh tế Hoa Kỳ-Bắc Việt. Ủy ban sẽ được hình thành trong vòng 30 ngày sau khi ký Hiệp Định.
    4.- Chức năng của Ủy ban này sẽ là đề ra các chương trình cho việc đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại ở Bắc Việt Nam. Sự đóng góp của Hoa Kỳ sẽ tiến hành trên cơ sở những yếu tố sau đây:
    a/ Các nhu cầu của Bắc Việt Nam do những tàn phá của chiến tranh gây nên.
    b/ Các yêu cầu của công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp của nền kinh tế Bắc Việt Nam.

    5.-) Ủy ban hỗn hợp kinh tế sẽ gồm những đại diện ngang nhau của mỗi bên. Ủy ban sẽ thỏa thuận về một bộ máy để quản lý chương trình đóng góp của Hoa Kỳ vào công cuộc xây dựng lại Bắc Việt Nam. Ủy ban sẽ cố gắng hoàn thành sự thỏa thuận này trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập.
    6.- Hai thành viên của Ủy ban sẽ hoạt động trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và cùng có lợi. Những trụ sở của Ủy ban sẽ đặt tại một nơi sẽ được thỏa thuận giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.
    7.- Hoa Kỳ cho rằng việc thực hiện những nguyên tắc nói trên sẽ thúc đẩy những quan hệ kinh tế thương mại và các quan hệ khác giữa Hoa Kỳ và Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sẽ góp phần vào việc bảo đảm một nền hòa bình vững chắc và lâu dài ở Đông Dương. Những nguyên tắc này phù hợp với tinh thần của Chương VIII của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam ký tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973.
    Điều ghi chú về những hình thức viện trợ khác:
    Về những hình thức viện trợ khác, việc nghiên cứu của Hoa Kỳ cho thấy rằng những chương trình thích hợp có thể là vào khoảng 1 đến 1,5 tỷ đô la tùy theo nhu cầu của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa về lương thực và hàng hóa khác. Hiểu biết về Chương trình xây dựng lại kinh tế:
    Có sự hiểu biết là những đề nghị của ủy ban hỗn hợp kinh tế nói trong công hàm của Tổng Thống gửi Thủ Tướng sẽ do mỗi thành viên thực hiện theo những quy định của Hiến Pháp của mình’’ (Lưu văn Lợi, Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ-Kissinger Tại Paris).
    Tại sao cả hai bên đều không thi hành mật ước ?
    Như vậy những gì hai bên thương lượng với nhau suốt 4 năm không nằm trong Hiệp Định, mà nằm trong Mật ước. Và hai bên ký với nhau Hiệp Định Paris chỉ là che mắt thế gian, còn Mật ước mới là kết quả thương lượng thực giữa hai bên.
    Khoan nói tới hai bên đã mật cam kết với nhau những gì, nhưng tại sao lại không giữ lời giao ước ? Đây là một giao ước mật chứ không phải là giao ước công khai. Một khi giao ước mật được ký kết thì phải được tôn trọng tuyệt đối, gần như là lời thề thiêng liêng. Nếu có một bên phản bội thì bên kia chỉ cần tung mật ước ra trước ánh sáng thì bên vi phạm sẽ trở thành kẻ lừa đảo.
    Mãi đến ngày 19.5.1977 Tổng Thống Hoa Kỳ Cater mới loan báo rằng sau khi ký Hiệp Định Paris 1973, Tổng Thống Nixon đã có ký với Hà Nội một mật ước
    Sau loan báo của Tổng Thống, Quốc Hội Hoa Kỳ tuyên bố đó chỉ là lời hứa của người đứng đầu cơ quan hành pháp Hoa Kỳ, cho nên quốc gia Hoa Kỳ không có trách nhiệm phải thi hành cam kết đó. Vì vậy dư luận hiểu rằng chính phía Hoa Kỳ đã không thi hành đúng như cam kết, nghĩa là sau Hiệp Định Paris Hoa Kỳ không chung cho Hà Nội một đồng nào trong số 4,75 tỷ.
    Vấn đề được đặt ra là tại sao Nixon lại không thi hành những điều mà ông nhân danh Tổng Thống Hoa Kỳ để viết ra ? Trong khi đó Hà Nội cũng không đưa mật ước ra để tố cáo Nixon thất hứa ? Nhất là khi Nixon còn tại chức ? Đặc biệt theo như nhân dân Hoa Kỳ được biết một cách không chính thức thì Hoa Kỳ chỉ phải chung cho Hà Nội 3,25 tỷ đô la mà thôi, tại sao giờ đây chính phủ Cater lại loan báo là 4,75 tỷ.
    Còn về phía Hà Nội tại sao họ cứ một mực tố cáo Nguyễn Văn Thiệu vi phạm Hiệp Định mà không công khai hay bán công khai tố cáo Nixon không giữ lời hứa về số tiền tái thiết Bắc Việt ? Nhất là khi Nixon còn tại chức ?
    Chìa khóa giải mã
    Năm 1998 chính phủ cộng sản Việt Nam (Phan văn Khải) đã cho công bố toàn bộ biên bản các cuộc mật đàm giữa Lê đức Thọ và Kissinger bằng một cuốn sách của Đại Tá cộng sản Việt Nam Lưu văn Lợi, ông là chuyên gia thương thuyết trong phái đoàn Hà Nội tại Paris. Cuốn sách có tựa đề là ‘’Các Cuộc Thương Lượng Lê đức Thọ & Kissinger tại Paris’’, sách xuất bản tại Hoa Kỳ năm 1998 nhưng phổ biến hạn chế, đặc biệt không cho lưu hành trong nước. Đến tháng 10 năm 2002 nhà xuất bản ‘’Công an Nhân dân’’ mới in lại và xuất bản trong nước. Trong chương cuối có đăng nguyên văn bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng, được Nixon ký ngày 1.2.1973, nghĩa là 4 ngày sau khi hai bên ký kết Hiệp Định Paris.
    Bản mật ước gồm có 7 mục, trong đó 3 mục đầu quy định thể thức chi trả 3,25 tiền bồi thường chiến tranh và 4 mục sau quy định thể thức viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội, bước đầu là 1,5 tỷ hàng hóa và lương thực (viện trợ với lãi xuất ưu đãi). Cơ quan điều hành hệ thống viện trợ bồi thường chiến tranh của Hoa Kỳ tại Hà Nội sẽ được thành lập xong trong vòng 30 ngày sau khi Hiệp Định Paris được ký kết. Và hệ thống sẽ đi vào hoạt động trong vòng 60 ngày sau khi được thành lập, nghĩa là đồng đô la viện trợ đầu tiên sẽ đến Hà Nội 1 tháng sau khi người tù binh Hoa Kỳ cuối cùng đã được thả (Tù binh được thả trong vòng 60 ngày).
    So sánh thời gian trao trả tù binh và thời gian bắt đầu chung viện trợ thì có thể kết luận được rằng ‘’Nếu Hà Nội thả hết 391 tù binh Hoa Kỳ xong rồi thì Hoa Kỳ mới thưởng bằng tiền viện trợ’’ Đây là lời hứa của bên chiến thắng: Hà Nội phải thả hết tù binh vô điều kiện, thả xong tới người cuối cùng một cách vui vẻ thì mới được chung 4,75 tỷ. (Thường thì giao ước bồi thường và trao trả tù binh được thực hiện trên nguyên tắc: Đồng tiền đầu tiên được đưa ra cùng với người tù đầu tiên được thả, và đồng tiền cuối cùng được đưa ra cùng với ngày người tù binh cuối cùng được thả. Thêm một bằng chứng chứng minh Hà Nội đã đầu hàng sau cuộc dội bom).
    Vậy thì ai đánh lừa ai ?
    Sự kiện tù binh phải được thả hết trước khi Hà Nội nhận được viện trợ chứng tỏ Hoa Kỳ không có lý do gì để sợ Hà Nội phản bội mật ước. Có chăng là Hà Nội sợ Hoa Kỳ lấy xong tù binh rồi quỵt nợ không chung tiền. Và thực tế xảy ra đúng như vậy, Nixon lấy được toàn bộ tù binh nhưng không chung được 1 đồng như đã hứa. Cái gì khiến cho Nixon và Kissinger trở thành những tay lừa đảo hạng bét ?
    Người ta xem lại biên bản từng cuộc mật đàm để truy nguyên hoàn cảnh phát sinh ra bản mật ước Nixon-Phạm văn Đồng. Hóa ra ban đầu, trước trận thả bom 12 ngày đêm thì mật ước đã được soạn trước nhưng chỉ có 3 mục đầu, nghĩa là bồi thường 3,25 tỷ. Số tiền này đã được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ.
    Nhưng sau khi Hà Nội thiếu điều kéo cờ trắng trong cuộc dội bom 12 ngày đêm thì hai bên mới ngồi lại và thêm vào 4 mục sau, có thêm 1,5 tỷ viện trợ lương thực và hàng hóa (Đây là số tiền cho vay để phát triển kinh tế chứ không phải là viện trợ nhân đạo không hoàn lại). Đồng thời có thêm một kế hoạch viện trợ phát triển kinh tế về lâu về dài cho Bắc Việt.
    So sánh mật ước 3 mục (trước cuộc dội bom) với mật ước 7 mục (sau cuộc dội bom) thì sau cuộc dội bom Hà Nội đã được Nixon thưởng thêm bằng cam kết sẽ viện trợ phát tiển kinh tế cho Hà Nội như là viện trợ cho một nước đồng minh, giống như viện trợ cho Nam Hàn sau Hiệp Ước Bàn Môn Điếm hay viện trợ cho Sài Gòn sau Hiệp định Genève.
    Suy ra Hà Nội đã âm thầm trở thành đồng minh của Hoa Kỳ sau cuộc dội bom, nghĩa là thay vì đầu hàng thì Hà Nội đã xin hồi chánh.
    Đầu hàng là buông súng và chịu mọi sự phán xét của kẻ thù, còn hồi chánh là ly khai với phe cọng sản và trở thành đồng minh của phe tự do. Lê Duẩn quyết định hồi chánh thì có lợi cho Bắc Việt nhiều hơn so với đầu hàng. Ông ta có quyền ly khai khỏi phe cộng sản bởi vì Trung Quốc và Liên Sô đã phản bội ông ta trước.
    Còn nếu như ông ta đầu hàng thì không có ai giúp ông hồi phục kinh tế sau chiến tranh mà trái lại ông còn giữ nguyên quyển sổ nợ chiến phí của Liên Sô và Trung Quốc. Vả lại chạy theo Mỹ thì tất cả dân Việt từ Nam chí Bắc đều hoan hô ông, còn như tiếp tục chạy theo hai đàn anh đểu cáng là Trung Quốc và Liên Sô thì dân tộc mãi mãi trong tăm tối và đói khát như Bắc Hàn hay Cu Ba ngày nay.
    Tại sao không bắt Hà Nội đầu hàng mà lại cho hồi chánh ?
    Ngay từ những ngày đầu có cuộc mật đàm Kissinger-Lê đức Thọ thì Quốc Hội Hoa Kỳ đã mặc nhiên cho phép Kissinger có quyền bỏ tiền ra lấy tù binh trở về. Vấn đề là Kissinger trình diễn làm sao cho việc chung tiền không có vẻ là Hoa Kỳ bại trận. Vì vậy Nixon vẫn hợp pháp khi Kissinger soạn ra tờ ‘’Mật ước 3 điểm’’ hứa chung 3,25 tỷ cho Hà Nội. Số tiền đã được thông báo cho Quốc Hội Hoa Kỳ và ngay cả dân chúng Hoa Kỳ cũng được biết một cách không chính thức.
    Thế nhưng 4 mục sau (cam kết thiết lập hệ thống viện trợ kinh tế dài hạn cho Hà Nội) là một việc làm phi pháp, bởi vì không xin phép Quốc Hội Hoa Kỳ, ‘’lén thỏa thuận với đối phương’’. Vả lại viện trợ kinh tế dài hạn chỉ được dành cho quốc gia đồng minh của Hoa Kỳ chứ không thể nào dành cho ‘’kẻ thù’’.
    Ngoài ra những đối thủ của Nixon trong Đảng Dân Chủ cũng có thể cáo buộc rằng cái giá để lấy tù binh trở về là công cuộc viện trợ phát triển kinh tế cho Hà Nội. Cũng là phạm pháp vì không xin phép Quốc Hội, nhưng nếu có xin phép thì Quốc Hội cũng sẽ bác bỏ bởi vì viện trợ kinh tế chỉ được cung cấp cho các quốc gia đồng minh trong khi Hà Nội đang là quốc gia thù địch.
    Sự kiện Nixon lẫn Hà Nội giữ kín tờ mật ước cho tới 1977 chứng tỏ ngày đó hai bên đồng thỏa thuận ‘’Hà Nội bí mật hồi chánh’’. Hà Nội có quyền ly khai khỏi thế giới cọng sản là do Trung Quốc và Liên Sô tráo trở, cả hai đã ngưng cung cấp vũ khí để buộc Hà Nội phải chấm dứt chiến tranh và trả tù binh cho Hoa Kỳ. Thế nhưng tại sao Nixon lại giấu nhẹm tin Hà Nội hồi chánh ? Câu trả lời rằng nhân dân Hoa Kỳ sẽ không chấp nhận bởi vì mối thù giữa Hà Nội và nhân dân Hoa Kỳ đang còn nóng hổi, Quốc Hội và dân chúng Hoa Kỳ muốn Hà Nội phải đầu hàng chứ dứt khoát không có chuyện Hà Nội tự nhiên trở thành đồng minh của Hoa Kỳ mà chẳng phải trả giá cho tội lỗi của họ.
    Vậy thì tại sao Nixon không buộc Hà Nội phải đầu hàng đúng theo ước vọng của dân chúng Hoa Kỳ ? Câu trả lời là Trung Quốc và Liên Sô sẽ không chấp nhận. Họ đã thỏa thuận trói tay Hà Nội để Hà Nội ngưng theo đuổi chiến tranh chứ không phải để cho Hoa Kỳ tha hồ đánh Bắc Việt đến nỗi phải đầu hàng. Thế giới sẽ nguyền rủa hai đàn anh đểu cáng.
    Nếu Hà Nội đầu hàng vì trận dội bom 12 ngày đêm thì đương nhiên Liên Sô và Trung Quốc sẽ công bố cho thế giới biết rằng trong năm 1972 đích thân Nixon đến Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa để năn nỉ họ thôi viện trợ vũ khí cho Hà Nội để Hà Nội chấm dứt mộng theo đuổi chiến tranh, đem lại hòa bình cho nhân dân Việt Nam và cho toàn thế giới chứ họ không ngờ là Hoa Kỳ đã lợi dụng việc này để tấn công buộc Hà Nội phải đầu hàng.
    Hậu quả chắc chắn sẽ kéo theo sự căng thẳng trở lại giữa Hoa Kỳ và thế giới cọng sản. Và dư luận thế giới sẽ coi Hoa Kỳ như là một kẻ tráo trở vô liêm sỉ, bởi vì rõ ràng là Hoa Kỳ đã bị cộng sản Việt Nam đánh bại nhưng lại năn nỉ Liên Sô và Trung Quốc trói tay Hà Nội để Hoa Kỳ tiếp tục hạ gục Hà Nội.
    Vì vậy mà Nixon đã không kịp trở tay khi nghe Hà Nội đề nghị hồi chánh, ông chỉ còn có nước bí mật giúp đỡ Hà Nội dưới hình thức viện trợ bồi thường chiến tranh. Sau đó là hiệp thương trao đổi hàng hóa giữa hai miền Nam Bắc (theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Cuối cùng là tổng tuyển cử lựa chọn chế độ (Cũng theo Hiệp Định Genève và Hiệp Định Paris). Dự trù đến lúc tổng tuyển cử thì Hà Nội sẽ sắp xếp cho dân miền Bắc bỏ phiếu quyết định theo chế độ tự do. Lúc đó Bắc Kinh và Mạc Tư Khoa sẽ không nói gì được. Và nhân dân Hoa Kỳ không thể nào từ chối.
    *(Ghi chú: Thực ra bức mật thư đã được Hà Nội tiết lộ dần dần cho các dân biểu nghị sĩ Hoa Kỳ từ năm 1975 nhưng những người này đã nhém đi vì không muốn chung tiền cho Hà Nội. Họ viện lý do Hà Nội đã không thi hành nghiêm chỉnh Hiệp Định Paris:
    Tháng 12 năm 1975 phái đoàn của Hoa Kỳ do Dân Biểu Montgomery dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
    Ngày 15.1.1976 phái đoàn do Thượng Nghị Sĩ McGovern dẫn đầu đến Hà Nội đã được xem.
    Ngày 14.4.1976, báo Nhân Dân của Hà Nội đăng một phần Mật ước với lời công kích chính phủ Mỹ (Đăng 3 điều đầu, giấu 4 điều sau).
    Ngày 3.5.1977, Phái đoàn đàm phán bình thường hóa quan hệ giữa cộng sản Việt Nam và Hoa Kỳ tại Paris do Holbrooks dẫn đầu đã được thứ trưởng ngoại giao cộng sản Việt Nam Phan Hiền cho xem.
    Ngày 6.5.1977, báo Nhân Dân của Hà Nội cho đăng một phần Mật ước và một phần Công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng cùng với lời chỉ trích chính phủ Mỹ ‘’chà đạp luật pháp quốc tế’’. Dân Biểu Hoa Kỳ Lester L.Wolff đòi đưa Nixon ra tòa nếu Nixon không đưa ra bản Mật ước.
    Ngày 14.5.1977 Nixon viết thư trả lời Wolff rằng chẳng có cam kết viện trợ nào cả.
    Ngày 19.5.1977, trước sức ép của Wolff, chính phủ Cater loan báo ngày 1.2.1973 Nixon có ký một Mật ước với Hà Nội với con số 4,75 tỷ USD (nghĩa là cho lộ luôn 4 điều sau mà Hà Nội đã giấu).
    Ngày 21.5.1977 bộ ngoại giao Hà Nội cho công bố toàn văn Mật ước của Nixon và công hàm đáp nhận của Phạm văn Đồng).
    …oOo…
    ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & NGUYỄN VĂN THIỆU

    Bùi Anh Trinh,br />

    Năm 1973, ngày 8.1, sau trận dội bom Mùa Giáng Sinh, Hòa đàm Paris được nối lại, mở đầu phiên họp là bài diễn văn của Lê đức Thọ, ông ta công kích Hoa Kỳ lật lọng leo thang chiến tranh. Kissinger không còn vui vẻ hoạt bát như các cuộc họp trước. Buổi chiều hai bên tiếp tục soạn thảo những chi tiết của văn bản hiệp ước mà trước đây đã bị bỏ dở.
    Ngày 9, 10, 11 và 12.1, hai bên hoàn thành văn bản của hiệp ước bằng tiếng Anh lẫn tiếng Việt. Buổi chiều Kissinger và Sullivan họp với đoàn đàm phán Việt Nam Cộng Hòa để thông báo nội dung toàn bộ văn bản Hiệp Định. Vấn đề còn lại là Tổng Thống Thiệu có chấp thuận hay không.
    * Chú giải: Đoạn tường thuật trên đây được ghi lại trong biên bản của bộ ngoại giao Hà Nội, do Lưu văn Lợi công bố năm 1998. Đọc qua đoạn biên bản này không ai có thể ngờ rằng đây là một cuộc họp sau cuộc dội bom Hà Nội 12 ngày đêm của Hoa Kỳ.
    Hẳn nhiên là phải có nhiều biến cố và nhiều thượng lượng đã xảy ra sau khi cuộc dội bom vừa chấm dứt. Thế nhưng biên bản buổi họp được ghi lại như không hề có gì xảy ra. Chứng tỏ Lưu văn Lợi đã buộc phải giấu kín những trao đổi đã xảy ra giữa Kissinger và Lê đức Thọ trước khi hai ông bước vào phiên họp ngày 8.1.1975, tức là từ ngày ngưng ném bom 29.12.1972.

    TT Nixon và TT Thiệu

    Năm 1973, ngày 14.1, Tướng Alexander Haig đến Sài Gòn với tối hậu thư của Nixon cam kết ‘’Chúng tôi sẽ không nhìn nhận quyền có mặt của quân đội ngoại quốc nào trên mãnh đất miền Nam. Chúng tôi sẽ phản ứng mãnh liệt trong trường hợp Hiệp Định bị vi phạm…’’, ‘’…Tôi quyết định sẽ tiếp tục viện trợ đầy đủ kinh tế và quân sự cho Việt Nam Cộng Hòa’’. Tối hôm đó họp Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Tổng Thống Thiệu trình bày nội dung tối hậu thư của Nixon. Đa số mọi người đồng ý nên ký vào vì đã có cam kết Mỹ sẽ tham chiến trở lại để đổi lại việc quân Bắc Việt có thể vi phạm hiệp ước.
    Ngày 17.1, Tổng Thống Thiệu gửi thư phúc đáp cho Tổng Thống Nixon trong một phong bì dán kín và nhờ Haig chuyển về cho Nixon khi đến Hoa Kỳ. Nhưng Haig về đến Tòa Đại Sứ thì xé phong bì để chuyển bằng diện tín về Washington.
    Ngay đêm đó, trong lúc Haig còn ở tại Sài Gòn, Đại Sứ Bunker chuyển đến Tổng Thống Thiệu một điện văn của Nixon, cho biết sau ngày ký hiệp ước, dự trù vào ngày 27.1, Phó Tổng Thống Agnew sẽ đến Sài Gòn với một bản mật ước của Tổng Thống Nixon, trong đó nêu rõ ba vấn đề:
    1.- Hoa Kỳ công nhận chính phủ của ngài là chính phủ duy nhất hợp pháp ở miền Nam Việt Nam.
    2.- Hoa Kỳ không công nhận quyền có mặt của quân ngoại quốc trên lãnh thổ của miền Nam.
    3.- Hoa Kỳ sẽ phản ứng mãnh liệt nếu bản Hiệp Định bị vi phạm. Ngoài ra: ‘’Tôi muốn được hội kiến riêng với ngài ba hay bốn tuần sau ở tại San Clements, California để chúng ta có dịp công khai nhắc lại mối hợp tác giữa hai nước, và sự cam kết của Hoa Kỳ’’ (Nguyễn Tiến Hưng, Hồ Sơ Mật Dinh Độc Lập).
    Trên nguyên tắc, đây cũng là điều kiện để hình thành Hiệp Định, nếu không có điện thư cam kết đó thì Tổng Thống Thiệu đã không ký vào Hiệp Định. Nguyên bản bức điện văn được Nguyễn Tiến Hưng đưa lên sách The Palace File, bản tiếng Việt trang 663. Vì vậy sau này cựu Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đã hết lời nguyền rủa Hoa Kỳ bội ước.
    Không phải Tổng Thống Nixon chủ tâm lừa đảo, sở dĩ ông mạnh dạn viết bức điện cam kết đó là vì Hà Nội đã đầu hàng. Không thể nào có chuyện Hà Nội gây chiến trở lại, họ không còn súng đạn, không còn gạo, và đang cần tiền viện trợ tái thiết của Hoa Kỳ (Tiến bồi thường chiến tranh). Không ngờ là sau này tình thế đã biến chuyển khác hẳn với những toan tính của Nixon và Kissinger.
    Năm 1973, ngày 16.1. Tài liệu của CIA: ‘’Ngày 16/1 Haig đến Sài Gòn với một thư tay khác của Nixon gởi cho Tổng Thống Thiệu rằng nếu vẫn không ký ông sẽ công khai tố cáo trước dư luận thế giới Thiệu ngăn cản hòa bình. Thiệu vẫn hoãn binh và cho biết sẽ trả lời Nixon vào ngày hôm sau.
    Hôm sau, 15 phút sau khi máy bay Haig rời Tân Sơn Nhất, Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh thu hẹp, đọc tối hậu thư của Nixon cho Hội Đồng nghe. Sau đó Hội Đồng bàn về cung cách thi hành hiệp định. Việc ký kết đến đây xem như đương nhiên. CIA báo cáo rằng ‘’trong thâm tâm Thiệu biết trước sau cũng phải ký theo ý Hoa Kỳ, nhưng ông đã làm những gì cần thiết có lợi cho sự tồn tại của Nam Việt Nam.’’ Sáng ngày 20/1 Thiệu triệu tập Hội Đồng An Ninh Quốc Gia thông báo quyết định ký. Phó Tổng Thống Trần Văn Hương khóc nói rằng Nam Việt Nam đang ở trên một chiếc gậy, chạy hướng nào cũng không tránh được tai họa, và ký Hiệp Định thì tai họa nhỏ hơn. Sau khi Hương dứt lời, Thiệu nói đồng ý với sự miêu tả của Hương (CIA and The Generals, bản dịch của Trần Bình Nam).
    Theo như đoạn tài liệu này của CIA thì Haig đến Sài Gòn ngày 14 rồi trở lại Hoa Kỳ, sau đó ngày 16 mới trở lại với thư cam kết của Tổng Thống Nixon. Nhưng thực ra theo hồi ký của Haig thì thay vì đem thư của Thiệu về Hoa Kỳ thì ông và Bunker đã mở thư (do lệnh của Nixon) và chuyển bằng điện về cho Nixon. Rồi Nixon gởi lại thư cam kết bằng điện cho Bunker để Bunker chuyển cho Thiệu. Tài liệu của CIA ngày đó có hơi khác so với hồi ký của Tướng Haig, sự thực là Haig đã mở thư tại Sài Gòn và nhận điện thư của Nixon rồi đem đến cho Thiệu chứ không có về Hoa Kỳ. Haig và Bunker không cần phải cho CIA biết chuyện này. Do đó đoạn tài liệu này của CIA chỉ là nhờ thâu thập qua thông tin của Trần Thiện Khiêm, nhưng Khiêm không hề biết là Haig không có về Hoa Kỳ.
    Đây mới chỉ là bức điện thư báo trước, coi như bản nháp của mật ước, còn mật ước có chữ ký của Nixon sẽ được Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Agnew đem đến Sài Gòn sau khi Hiệp Định ngưng bắn được ký kết.
    Ký kết hòa ước
    Năm 1973, ngày 23.1, lúc 10 giờ 45 sáng, bản Hiệp Định Paris 1973 được Kissigner và Lê đức Thọ ký tắt. Sau khi ký xong hai ông trao đổi cho nhau cây viết để làm kỷ niệm.
    Năm 1973, ngày 27.1, buổi sáng, 4 bên tham chiến cùng ký kết Hiệp Định có liên quan đến 4 bên, gồm có Ngoại Trưởng Hoa Kỳ William Rogers, Ngoại Trưởng Hà Nội Nguyễn Duy Trinh, Ngoại Trưởng Việt Nam Cộng Hòa Trần Văn Lắm, và Đại diện mặt trận giải phóng miền Nam Nguyễn Thị Bình. Buổi chiều Hoa Kỳ và Hà Nội ký vào văn kiện thứ hai có liên quan tới sự kết ước giữa hai bên
    . * Chú giải: Dư luận Hoa Kỳ đối với Nixon: Báo Washington Post
    Báo Boston Herald Traveler: ‘’Nó tốt hơn nhiều so với một cuộc đầu hàng hèn nhát mà một số người Hoa Kỳ sẵn sàng chấp nhận’’.
    Báo Walstreet Journal: ‘’Ông đã rút 550 ngàn quân ra khỏi Việt Nam và đem được tù binh trở về mà không mất chế độ Sài Gòn…Kẻ địch đã hiểu rằng xương sống của người ngồi trong Tòa Bạch Ốc được làm bằng thép…’’
    Báo Cleverlnad Plain Dealer: ‘’Ván bài quốc tế của ông đã có kết quả trước mọi thứ áp lực ở trong cũng như ngoài nước. Đây là giờ phút oanh liệt nhất của vị Tổng Thống thứ 37 của chúng ta’’.
    Theo ghi chép của Hadleman thì sau khi xem các bài báo đó, Nixon có nhận xét rằng chưa có ai nói đúng về ông ta, đó là ‘’có bản lĩnh và kiên trì’’. Bí mật đằng sau Hiệp Định:
    Hiệp Định gồm có 9 khoản, trong 9 khoản có 23 điều. Nội dung của 9 khoản, 23 điều cho thấy trong 4 năm đàm phán hai bên chỉ thương lượng với nhau về 3 mục là (1) Mỹ rút quân (2) Hà Nội trả tù binh (3) Mỹ bồi thường chiến tranh. Tuy nhiên chuyện Mỹ rút quân là do Nixon tự quyết định rút quân về để thay thế bằng quân Việt Nam Cộng Hòa chứ không phải là do kết quả điều đình. Như vậy chỉ còn 2 vấn đề mà người ta phải hẹn nhau đến Paris để thương lượng trong 4 năm là Hà Nội trả tù binh và đòi bồi thường chiến tranh.
    Nhưng vấn đề trao trả tù binh Hoa Kỳ và tiền bồi thường chiến tranh chỉ được đưa ra sau khi cả Trung Quốc và Liên Sô đều thông báo cho Hà Nội là họ muốn Hà Nội chấm dứt chiến tranh. Lúc đó Lê Duẩn có muốn đánh tiếp cũng không có gạo, không có đạn để đánh. Do đó chỉ cần 2 cuộc họp cách nhau 2 tháng thì Hà Nội đã đưa ra toàn bộ các điều kiện của họ: Tức là thả tù binh Hoa Kỳ vô điều kiện, không đòi thay thế chế độ Thiệu, không đòi thả 38 ngàn tù chính trị cọng sản miền Nam, không buộc Hoa Kỳ phải ghi điều khoản bồi thường chiến tranh vào trong Hiệp định đình chiến v.v…Dĩ nhiên là Nixon nợ Liên Sô và Trung Quốc về sự nhượng bộ này.
    Nội dung 9 khoản ghi trong Hiệp Định cho thấy không cần phải tốn tới 4 năm mới có được văn bản của hiệp định:
    Khoản 1: Các quyền cơ bản của dân tộc Việt Nam. Dĩ nhiên Kissinger và Lê đức Thọ không phải thương lượng với nhau về chương này, chỉ cần sao lại chương 1 của Hiệp Định Genève).
    Khoản 2: Chấm dứt chiến sự, rút quân. Chương này dành cho chuyên viên kỹ thuật, ấn định ngày giờ ngưng bắn, thời hạn rút quân, dĩ nhiên hai ông cũng không thương lượng với nhau về mục này.
    Khoản 3: Việc trao trả nhân viên quân sự bị bắt. Đây mới là mục chính yếu để thương lượng nhưng tránh không nói tới chữ ‘’trao trả tù binh’’ mà nói là trao trả nhân viên quân sự bị bắt.
    Khoản 4: Việc thực hiện quyền tự quyết của dân tộc Việt Nam (Dĩ nhiên vấn đề này cũng không cần thương lượng, chỉ cần sao lại Hiệp Định Genève).
    Khoản 5: Vấn đề thống nhất Việt Nam. Không cần thương lượng, chỉ cần nói rằng theo như Hiệp Định Genève 1954 là xong.
    Khoản 6: Ủy ban kiểm soát đình chiến. Cũng không cần thương lượng, việc này cũng chỉ giao cho các chuyên viên quân sự.
    Khoản 7: Đối với Cam Bốt và Lào. Cũng ghi theo như Hiệp Định Genève là xong.
    Khoản 8: Quan hệ giữa Hoa Kỳ và cộng sản Bắc Việt. Đây mới là vấn đề chính, nghĩa là ai phải chung cho ai và chung bao nhiêu.
    Khoản 9: Các quy định khác: Hiệp định có hiệu lực sau khi ký./.
    Vậy thì chỉ cần xem lại khoản 3 và khoản 8 có 3 điều chính yếu:
    Điều 5 (Thuộc khoản 3): Trong thời hạn 60 ngày kể từ khi ký hiệp định này sẽ hoàn toàn rút ra khỏi miền Nam Việt Nam mọi quân đội, cố vấn quân sự và nhân viên quân sự liên quan đến chương trình vũ khí, đạn dược và các dụng cụ chiến tranh của Hoa Kỳ và các nước ngoài khác…
    Điều 8 (Thuộc khoản 3): Việc trao trả những nhân viên quân sự của các bên bị bắt và thường dân nước ngoài của các bên bị bắt sẽ tiến hành song song và hoàn thành không chậm hơn ngày hoàn thành việc rút quân nói trong điều 5.
    Điều 21(Thuộc khoản 8): Hoa Kỳ mong rằng Hiệp Định này sẽ mang lại một thời kỳ hòa giải với Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa cũng như với các dân tộc Đông Dương. Theo chính sách truyền thống của mình, Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào việc hàn gắn vết thương chiến tranh và công việc xây dựng sau chiến tranh ở Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và toàn Đông Dương.
    Tóm tắt 9 khoản, 23 điều của Hiệp Định thì người ta thấy ngay sự phi lý: Ngưng bắn da beo, chính phủ Nguyễn Văn Thiệu vẫn còn tồn tại, 38.000 cán bộ dân sự cộng sản miền Nam vẫn bị giam trong các trại tù. Trong khi đó tù binh cộng sản Bắc Việt, tù binh Việt Nam Cộng Hòa và tù binh Hoa Kỳ được thả, Hoa Kỳ không phải trả tiền bồi thường chiến tranh nhưng: ‘’Hoa Kỳ sẽ đóng góp vào công cuộc hàn gắn vết thương chiến tranh và tái thiết sau chiến tranh’’. Như vậy công lao chiến đấu của cộng sản Việt Nam từ 1959 tới 1973 coi như bỏ đi, họ không được một tí lợi nào cả ?
    Nếu Hà Nội sáng suốt thì bắt phải ghi rõ con số 3,25 tỷ vào điều khoản 21 và ấn định lịch trình trao đổi, hễ đưa bao nhiêu thì thả bấy nhiêu, đưa tới đồng Dollar cuối cùng thì thả người cuối cùng. Dĩ nhiên một khi đã ghi con số và lịch trình trao đổi thì đến khi Quốc Hội Hoa Kỳ biểu quyết thông qua Hiệp Định sẽ phải ký thêm một đạo luật chuẩn chi ngân sách đính kèm. Phải chăng Lê đức Thọ đã bị lừa ?
    Vì không tin là Lê đức Thọ bị lừa cho nên những nhà quan sát thời cuộc thừa hiểu rằng đằng sau Hiệp Định phải có một mật ước riêng giữa hai bên, trong đó sẽ quy định rõ con số bồi thường chiến tranh cũng như thể thức thanh toán.
    Còn về phần Quốc Hội Hoa Kỳ thì họ không có lý do gì để từ chối một hiệp định công khai, hoàn toàn có lợi cho Hoa Kỳ, nghĩa là chấm dứt chiến tranh, đem được tù binh trở về mà không tốn một đồng nào cả.

    .

    ….Là một quốc gia có diện tích không nhỏ, dân số cũng đông có hạng và chiếm ngữ một địa thế đắc địa ở Đông nam á thay vì nếu ở xa thằng Tàu thì dân tộc chúng ta đã có được một đời sống tương đối tốt đẹp hơn trăm vạn lần.Đọc xong bài này tôi cứ nghĩ mọi cơ hội tốt đẹp cho VN té ra lại chỉ bị một anh H Kiss xoay như xoay váy, sau khi qua Liên Xô xin họ giảm quân viện cho VN(điều này thực ra LX lại tăng thêm cho HN để dứt điểm Nam Việt), rồi qua Tàu ăn óc khỉ và tay gấu bàn giao Đông Dương và Biển Đông cho Tàu, hắn vào Nam ép TT Thiệu ký văn bản hiệp ước hòa bình vô điều kiện, lại nhãy ra Hà Nội dự ký bản mật ước bồi hoàn sau hậu chiến 4,3 tỹ đô…
    (B.A.T.)
  3. Vì sao phản đối quyết liệt nhưng cuối cùng TT Nguyễn Văn Thiệu
    lại ký hiệp đình hòa bình Paris 1973?

    Click image for larger version Name:	nixonthieu.jpg Views:	0 Size:	233.5 KB ID:	991984   Click image for larger version Name:	ttthieu.jpg Views:	0 Size:	129.9 KB ID:	991985
    Nhiều người trong chúng ta đã có câu hỏi vì sao Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu quyết liệt phản đối ký hiệp định hòa bình Paris năm 1973 nhưng cuối cùng ông lại ký hiệp định này. Một hiệp định rất bất lợi cho VNCH và hậu quả dẫn đến sự thất thủ Sài Gòn. Cố tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chia sẻ như sau:

    “Ông Nixon nói với tôi như thế này, ông nói tất cả những hiệp định chẳng qua là những giấy tờ mà không có giá trị gì nếu không được thi hành, nếu như Bắc Việt vi phạm. Cho nên điều quan trọng, ông không phải ký hiệp định và ông chấp nhận hiệp định, điều quan trọng là khi cộng sản Bắc Việt mà phản bội vi phạm hiệp định và tái tấn công Việt Nam, thì ông sẽ làm cái gì và với phương diện gì, mà tôi sẽ giúp ông cái gì, cái đó mới là quan trọng.”

    Cho nên ngày nay ông đừng thắc mắc vấn đề ký hiệp định này mà tôi thấy nó là tốt nhất không có tốt hơn nữa, chúng tôi cũng muốn tốt hơn được nữa nhưng mà chúng tôi không thể can thiệp được hơn nữa với Liên Sô và Trung Cộng, chúng tôi đành chịu vậy thôi.

    Nhưng mà TT Thiệu, ông phải nghĩ rằng ông có làm hiệp định cách mấy mà ông nghĩ rằng cộng sản nó không tôn trọng, mà nó đưa quân vô đánh ông trở lại thì vấn đề không phải giở hiệp định đưa ra mà cộng sản sợ, vấn đề là người Mỹ sẽ giúp Việt Nam cái gì để đánh lại cộng sản. Cái đó mới quan trọng và tôi mời ông vô Hoa Thịnh Đốn để đặt lại vấn đề nền tảng mới, căn bản mới của mối bang giao giữa hai quốc gia Việt Mỹ thời hậu chiến và sự cam kết giúp đỡ lẫn nhau để bảo vệ sự tự do, độc lập của miền Nam nếu cộng sản vi phạm hiệp định.

    Tổng thống Thiệu chia sẽ rằng:
    Nixon nói thì hấp dẫn, tôi không tin ông ta nhưng mà áp lực lớn nhất đối với tôi lúc đó là, nếu như chính phủ VNCH không ký hiệp định này thì chắc chắn tức khắc Quốc Hội Mỹ sẽ cúp viện trợ ngay, trong đó có viện trợ quân sư và kinh tế tức khắc.

    Nixon nói với tôi rằng: Ông thấy cái tương lai quan trọng hay là thấy cái hiện tại bây giờ. Với sự cam kết long trọng mà tôi thấy không phải giữa cá nhân tôi và ông Thiệu, mà là giữa Tổng Thống Hoa Kỳ và Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, giữa một người đại diện cho một đồng minh dân tộc Hoa Kỳ, lãnh đạo Hoa Kỳ, lãnh đạo thế giới tự do và một đồng minh đã chiến đấu với Việt Nam Cộng Hòa chứ không phải giữa cá nhân và hai chính quyền. Cam kết thứ nhất nếu cộng sản Bắc Việt tái xâm lăng, vi phạm hiệp định Paris thì Hoa Kỳ sẽ phản ứng mạnh mẽ quyết liệt và tức khắc ngăn chặn sự xâm lăng đó. Cam kết thứ hai chỉ nhìn nhận chính phủ VNCH là chính phủ duy nhất tại Việt Nam. Cam kết thứ ba là cung cấp dồi dào viện trợ kinh tế và quân sự cho nhân dân Việt Nam chống lại cộng sản xâm lược nếu cộng sản tái xâm lăng và đủ viện trợ kinh tế để phát triển đất nước.

    Advertisement
    nguon

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s