Hiểm Họa Xâm Lăng – Ngô Đình

2-nhu35

CHỈ LÀ VẤN ĐỀ THỜI GIAN

Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

…!!!…
CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM
Tác già Ngô Đình Nhu (1910-1963)

Vô đây : Toàn tập CHÍNH ĐỀ VIỆT NAM – Ngô Đình Nhu

_____________________________

Quan Điểm của Ông Ngô Đình Nhu về
Hiểm Họa Xâm Lăng của Trung Cộng .

Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu – 11/1/2009
Tư liệu về Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm

Khi hay tin Tổng Thống Ngô Đình Diệm bị ám sát, Cố Tổng Thống Tưởng Giới Thạch của Trung Hoa Dân Quốc, đã nhận xét:

Người Mỹ có trách nhiệm nặng nề trong việc vụ ám sát xấu xa này. Trung Hoa Dân Quốc mất đi một đồng chí tâm đầu ý hợp… Tôi khâm phục ông Diệm, ông xứng đáng là một lãnh tụ lớn của Á Châu, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm nữa mới tìm được một lãnh tụ cao quí như vậy.[1].

Nhưng khi đọc xong tác phẩm Chính Đề Việt Nam của ông Ngô Đình Nhu[2], tôi nghĩ cần phải thêm vào lời nhận xét đó, Việt Nam có lẽ phải mất đến 100 năm hay nhiều hơn nữa mới tìm được một nhà lãnh đạo có viễn kiến chính trị sâu sắc như ông Nhu…

Thực vậy, đối với cá nhân người viết, sau hơn 30 năm giảng dạy và nghiên cứu về các vấn đề chính trị Việt Nam tại một số các viện đại học, các viện nghiên cứu, các bảo tàng viện và thư viện tại Việt Nam, Úc, Hoa Kỳ và Âu châu.. người viết được các đồng nghiệp và các chuyên gia quốc tế về Việt Nam đã dành cho một chút cảm tình và nễ trọng về kiến thức chuyên môn và sự khổ công đọc sách. Tuy nhiên, với tất cả sự thận trọng cần thiết của một người nghiên cứu lịch sử, người viết phải thành thật công nhận rằng, trong tất cả những sách nghiên cứu mà người viết đã có dịp đọc trong hơn 30 năm qua vì sở thích hay vì nhu cầu giảng dạy và nghiên cứu đòi buộc phải đọc bằng Việt, Pháp và Anh ngữ, chưa có một tác phẩm nào, thể hiện một sự tổng hợp bao quát và rất giá trị về các vấn đề chính trị thế giới trong hơn 200 năm qua, để rồi sau đó đưa ra những viễn kiến chính trị vô cùng sâu sắc để làm Kim Chỉ Nam Phát Triển cho Việt Nam cũng như các Quốc Gia Chậm Tiến trên thế giới, như tác phẩm này của ông Nhu. Có lẽ phải nói đây là một đóng góp quí báu vào kho tàng tư tưởng chính trị thế giới. Và giả dụ rằng, nếu có thể sống thêm 100 năm nữa để đọc sách, người viết nghĩ rằng không thể nào có được một óc tổng hợp bao quát, đứng đắn và một viễn kiến chính trị sâu sắc thần kỳ như tác giả của quyển Chinh Đề Việt Nam.

Vì tác phẩm nguyên bản bằng Pháp ngữ, và người viết tin rằng dịch giả đã rất xuất sắc trong khi chuyễn ngữ, vì ấn bản Việt ngữ đã diễn tả một cách hết sức lưu loát những khía cạnh sâu sắc và phức tạp của các vấn đề. Tuy nhiên, những người đã quen tiếp cận với lối hành văn của ông Nhu qua các diễn văn mà Ông đã soạn thảo cho Tổng Thống Diệm trong suốt 9 năm của nền Đệ Nhất Cộng Hòa,[3] chắc chắn sẽ thấy rằng cách hành văn trau chuốt, chính xác, nghiêm túc, sắc bén và chặt chẻ của ông Nhu mà bản dịch không thể nào thể hiện được.

Tuy nhiên, người viết muốn độc giả trực tiếp tiếp cận, một phần nào, với cách luận giải và trình bày độc đáo của ông Nhu về các vấn đề chính trị Việt Nam và quốc tế, nên người viết đã quyết định trích nguyên văn những phần trong Chính Đề Việt Nam liên quan dến chủ đề của bài viết này. Và người viết sẽ hạn chế tối đa phần đưa ra những diễn giải và nhận xét riêng tư của mình.

Về nội dung tác phẩm, có lẽ phần cuốn hút được sự ngưỡng mộ nhất của người viết là, trước đây gần nữa thế kỷ, ông Nhu đã nhận xét Liên Sô sẽ tự giải thể để làm hòa với Tây Phương và Trung Cộng sẽ thất bại trong việc sử dụng chủ nghĩa Cộng Sản để phát triển kinh tế, cũng như Âu Châu sẽ tập hợp lạii với nhau trong một khối thống nhất như Khối Liên Hiệp Âu Châu ngày nay. Nhưng điều hấp dẫn hơn nữa, ông Nhu đã không đưa ra những lời tiên đoán như một người thầy bói hay một chiêm tinh gia, trái lại, ông đã đưa ra những phán đoán của mình, sau khi đã phân tích và tổng hợp các dữ kiện lich sử và các biến cố chính trị thế giới, một cách khoa học, khách quan và vô tư. Chính vì vậy, người viết nghĩ rằng tập sách này sẽ có một mãnh lực vô cùng hấp dẫn đối với các nhà lãnh đạo Việt Nam và các quốc gia chậm tiến Á Phi, nếu họ thực sự mong muốn xây dựng và phát triển đất nước, theo một đường lối khoa hoc, thực tiển và hợp lý nhất.

Ví tác phẩm bao quát nhiều vấn đề lớn lao liên quan đến kinh nghiệm phát triển kinh tế của Nhật Bản, Liên sô, Thái Lan, Thổ Nhĩ Kỳ.. và cả trường hợp của Trung Cộng nữa. Đó là những đề tài quá lớn cho bài viết này. Do đó, người viết nghĩ rằng, vấn đề thời sự nóng bỏng nhất hiện nay là vấn đề Trung Cộng xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải, các hải đảo Hoàng Sa & Trường Sa cùng vùng Cao Nguyên Trung Phần. Chúng ta thử tìm xem, gần 50 năm trước đây, ông Nhu đã tiên đoán hiểm họa này ra sao, đã kiểm điểm lại chinh sách ngoại giao sai lầm của chúng ta như thế nào và phương sách nào phải theo đuổi để chống lại Trung Cộng, để chúng ta có thể thấy được kiến thức uyên bác của một chính trị gia và cũng là một học giả lỗi lạc của thời đại chúng ta.

Sự Thiển Cận Của Nhà Cầm quyền Hà Nội.

Sự xâm lăng của Trung Quốc đối với Việt Nam có tính cách trường kỳ, nhưng những nhà lãnh đạo Hà Nội vì thiển cận và vì quyền lợi hẹp hòi của Đảng Cộng Sản và cũng có thể vì quyền lợi cá nhân ích kỷ của những vị lãnh đạo, đã không ý thức hiểm họa xâm lăng khiếp hải đó của Trung Quốc, họ đã xem nhẹ quyền lợi của quốc gia, dân tộc, đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, đánh mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, là khai thác những mâu thuẫn giữa hai khối Tây Phương và Liên Sô sau Thế Chiến Thứ Hai, để khôi phục độc lập và nhận viện trợ của cả hai khối để phát triển dân tộc…như Ấn Độ. Trái lại, việc cam tâm làm chư hầu cho Trung Cộng và Liên Sô đã đưa Việt Nam vào cuộc chiến tranh với Tây Phương một cách vô nghĩa và phi lý, và đã đem lai một hậu quả vô cùng khủng khiếp cho cả dân tộc, đó là sự hủy diệt toàn bộ sinh lực của quốc gia, cả về phương diện tinh thần lẫn vật chất và sinh mang của người Việt, trong suốt hơn 30 năm… Nhưng còn tệ hại hơn nữa, là sự nhận viện trợ đó từ Trung Cộng đã là tiền đề để rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam ngày nay.

Từ những năm đầu của thập niên 1960, ông Nhu đã nhìn thấu suốt được hiểm họa xâm lăng truyền kiếp đó như sau:

Trong lịch sử bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, các biến cố xảy ra đều do hai tâm lý đối chọi nhau. Từ năm 972, sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam rồi, lúc nào Trung Hoa cũng nghĩ rằng đã mất một phần lãnh thổ quốc gia, và lúc nào cũng khai thác mọi cơ hội đưa đến, để thâu hồi phần đất mà Trung Hoa xem như là của họ. Bên kia, Việt Nam lúc nào cũng nỗ lực mang xương máu ra để bảo vệ nền độc lập của mình. Tất cả các sự kiện, xảy ra giữa hai quốc gia, đều do sự khác nhau của hai quan niệm trên.

Ngay năm 981, nghĩa là vừa ba năm sau khi đã nhìn nhận độc lập của Việt Nam, Tống triều thừa lúc nội chính Việt Nam có biến, vì Đinh Tiên Hoàng vừa mất, và sự kế vị không giải quyết được, gởi sang Việt Nam hai đạo quân, do đường thuỷ và đường bộ, để đặt lại nền thống trị của Trung Hoa.

Ý cố định của Trung Hoa là đặt lại nền thống trị và không lúc nào Trung Hoa thỏa mãn với sự thần phục và triều cống của chúng ta. Ngay những lúc mà quân đội chúng ta hùng cường nhất, và chiến thắng quân đội Trung Hoa, thì các nhà lãnh đạo của Việt Nam cũng khôn ngoan, tìm cách thỏa thuận với Trung Hoa và tự đặt mình vào chế độ thuộc quốc. Nhưng, điều mà Trung Hoa muốn không phải là Việt Nam chỉ thần phục và triều cống. Trung Hoa, suốt gần một ngàn năm lịch sử, lúc nào cũng muốn lấy lại mảnh đất mà Trung Hoa coi như bị tạm mất.

Trong 900 năm, từ năm 939 đến năm 1840, khi Tây phương tấn công vào xã hội Đông Á làm cho những mâu thuẫn, nội bộ của xã hội này, tạm ngưng hoạt động, Trung Hoa đã bảy lần toan chiếm lại nước Việt Nam. Hai lần do nhà Tống chủ trương, ba lần nhà Nguyên, một lần nhà Minh và một lần nhà Thanh. Một hành động liên tục như vậy, nhất định có nghĩa là tất cả các triều đại Trung Hoa đều theo đuổi một chính sách, đặt lại nền thống trị trên lãnh thổ Việt Nam. Chính sách này do một điều kiện địa dư và kinh tế ấn định: lưu vực sông Hồng Hà là đướng thoát ra biển thiên nhiên của các tỉnh Tây Nam của Trung Hoa, và ngược lại cũng là con đường xâm nhập cho các đạo quân chinh phục vào nội địa Trung Hoa. Đã như vậy thì, ngay bây giờ, ý định của Trung Cộng vẫn là muốn thôn tính, nếu không phải hết nước Việt Nam, thì ít ra cũng Bắc phần. Cũng chỉ vì lý do này mà, năm 1883, Lý Hồng Chương, thừa lúc Tự Đức cầu viện để chống Pháp, đã, thay vì gởi quân sang giúp một nước cùng một văn hóa để chống ngoại xâm, và thay vì cứu viện một thuộc quốc mà Trung Hoa đáng lý ra có nhiệm vụ bảo vệ, lại thương thuyết một kế hoạch chia cắt Việt Nam với Pháp, Trung Hoa dành cho mình các phần đất gồm các vùng bao bọc lưu vực sông Hồng Hà để lấy đường ra biển. Và ngay Chính phủ Tưởng Giới Thạch năm 1945, dành phần giải giới quân đội Nhật Bản từ vĩ tuyến 16 trở lên phía Bắc[4], cũng vì lý do trên.

Xem thế đủ biết rằng, đối với dân tộc chúng ta họa xâm lăng là một mối đe dọa thường xuyên. (tr. 166)

Do đó, Trung Hoa của Mao Trạch Đông, cũng như Trung Hoa của các triều đại Nguyên, Tống, Minh, Thanh là một đe dọa truyền kiếp.

Sùng Bái Chủ Nghĩa Cộng Sản là một Sai Lầm Nghiêm Trọng

Trong khi Liên Sô và Trung Cộng xem chủ nghĩa Cộng Sản như là phương tiện tranh đấu để qui tụ các nước nhược tiểu Á Phi vào đồng minh với họ, chống lại sự bao vây của Tây Phương nhằm giúp họ phát triển kinh tế của đất nước họ, thì Cộng Sản Việt Nam sùng bái chủ nghĩa Cộng Sản như là một chân lý để cải tạo xã hội và xây dựng đất nước. Chính vì sự thiếu sáng suốt của nhà cầm quyến Hà Nội đã khiến Việt Nam phải bị chia cắt làm 2 miền vào năm 1954, mất đi cơ hội ngàn năm một thuở, để xây dựng đất nước và củng cố độc lập để chống ngoại xâm.

Ông Nhu đã luận giải nan đề đó như sau:

Nhưng chúng ta cũng còn nhớ rằng Nga Sô sở dĩ liên kết với các thuộc địa của Tây phương là bởi vì Nga Sô cần có đồng minh trong công cuộc chiến đấu trường kỳ và vĩ đại với Tây phương, mà mục đích trước hết và trên hết, là phát triển dân tộc Nga. Tính cách thiêng liêng giữa các đồng chí của lý tưởng cách mạng xã hội thế giới chỉ là một tín hiệu tập hợp qui tụ kẻ thù của Tây phương vào một mặt trận phục vụ một chiến lược tranh đấu của dân tộc Nga. Ngày nay, mục đích phát triển của Nga đã đạt. Sự thay thế các giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn của Nga Sô bằng những giá trị tiêu chuẩn, di sản của văn minh nhân loại, như chúng ta đã thấy trong một đoạn trên, là một bằng cớ hùng biện nhất, soi sáng lập trường của Nga. Trung Cộng tố cáo Nga phản bội chủ nghĩa Các-Mác Lê-Nin vì những sự kiện trên. Trung Cộng lại muốn thay thế Nga, nhân danh chủ nghĩa Các-Mác Lê Nin hô hào qui tụ các nước kém mở mang, để phục vụ công cuộc phát triển cho dân tộc Trung Hoa. Ngày nào mục đích phát triển đã đạt, thì cuộc đồng minh mới này do Trung Cộng đề xướng cũng không còn hiệu lực đối với Trung Cộng, cũng như cuộc đồng minh trước đây do Nga đề xướng, ngày nay, không còn hiệu lực đối với Nga. Và mục đích cuối cùng của cuộc tranh đấu vẫn là mục đích dân tộc.

Nhiều nhà lãnh đạo Á Đông mà quốc gia cũng đã bị Đế quốc thống trị, đã đủ sáng suốt để nhìn thấu thâm ý chiến lược của Nga Sô. Gandhi và Nehru, từ chối sự đồng minh với Cộng Sản vì lý do trên.(tr. 201)

Chúng ta chưa có một tài liệu hay một triệu chứng nào chứng tỏ rằng các nhà lãnh đạo miền Bắc hiện nay đã nhận thức các điều kiện trên. Ngược lại, các thư lại chính trị của miền Bắc còn đang ca tụng như là những chân lý những giá trị tiêu chuẩn chiến lược và giai đoạn mà Nga Sô đã bỏ. Như thế thì có lẽ dân tộc chúng ta còn phải bất hạnh mục kích các nhà lãnh đạo miền Bắc của chúng ta tôn thờ như một chân lý, một lý thuyết mà Nga Sô và Trung Cộng chỉ dùng làm một phương tiện tranh đấu và Nga Sô bắt đầu sa thải khi mục đích phát triển đã đạt.

Như thế thì, giả sử mà người Pháp có thật sự thi hành một chính sách trả thuộc địa, như người Anh, đối với Việt Nam, thì các nhà lãnh đạo miền Bắc cũng chưa chắc đã đưa chúng ta ra được ngoài vòng chi phối trực tiếp của hai khối để khai thác mâu thuẫn mà phát triển dân tộc.

Trong hoàn cảnh mà cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối nặng nề hành động chính trị của các quốc gia nhỏ, lập trường Cộng Sản, lệ thuộc Trung Cộng, của các nhà lãnh đạo miền Bắc, đương nhiên gây phản ứng của Tây phương và sự phân chia lãnh thổ cũng không tránh được.

Như vậy, tư cách Cộng Sản của các nhà lãnh đạo miền Bắc là một điều kiện thuận lợi giúp cho người Pháp thi hành những toan tính chính trị của họ ở Việt Nam. Và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng là một nguyên nhân của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam, trong khung cảnh chính trị của thế giới, sau Đại chiến thứ hai, do sự tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương chi phối.

Tóm lại nguyên nhân sâu xa của sự phân chia lãnh thổ Việt Nam ngày nay là chính sách thuộc địa của Pháp và lập trường Cộng Sản lệ thuộc Nga Sô và Trung Cộng của các nhà lãnh đạo miền Bắc.

Trong thực tế, sự phân chia đã nảy mầm khi hai quốc gia Tây phương Anh và Mỹ, để dọn đường cho một giải pháp chấm dứt sự bế tắc của Pháp ở Việt Nam, nhìn nhận và bắt dầu viện trợ cho quốc gia Việt Nam. Tuy nhiên, viện trợ quân sự và kinh tế đều qua tay chính phủ Pháp. Và một phần lớn, đã được sử dụng trực tiếp hay gián tiếp trong công cuộc tái thiết nước Pháp đã bị chiến tranh tàn phá. Thời gian qua, xét kỹ thì thời kỳ này lại là thời kỳ mà những thủ đoạn chính trị của Pháp ở xứ này mang đến nhiều kết qảu nhất.

Bên khối Cộng Sản, Nga và Trung Cộng cũng nhìn nhận Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam và cũng bắt đầu viện trợ.

Từ đây, chiến cuộc Việt Nam, biến thành một chiến trường quân sự và địa phương của cuộc tranh chấp giữa Nga Sô và Tây phương. Những mâu thuẫn giữa Nga Sô và Tây phương mà, đúng lý ra, phải được dùng để phát triển dân tộc, lại trở thành những khí giới gieo rắc sự chết cho toàn dân. Những yếu tố của một cơ hội phát triển đã biến thành những khí cụ của một tai họa.

Đồng thời, điều này vô cùng quan trọng cho chúng ta, sự chi phối của Trung Hoa, và sau lưng sự chi phối, sự đe dọa xâm lăng của Trung Hoa, mà chúng ta đã biết là vô cùng nặng nề, một cách liên tục, cho chúng ta trong hơn tám trăm năm, tạm thời đình chỉ trong gần một thế kỷ Pháp thuộc, đã bắt đầu hoạt động trở lại dưới các hình thức viện trợ và cố vấn quân sự cho quân đội của Cộng Hòa Dân Chủ Việt Nam.

Chúng ta thừa hiểu rằng sự phát triển của Tàu, là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh hiện nay của các nhà lãnh đạo Trung Cộng, cũng như sự phát triển của Nga là mục đích trước và trên hết trong mọi cuộc Đồng Minh trước đây của các nhà lãnh đạo Nga. (tr. 202 -204).

Nhưng Hà Nội còn phạm những lỗi lầm nghiệm trong hơn nữa, khi quyết định dụng võ lưc để thôn tính miền Nam, đã dẫn tới việc trực tiếp đụng độ quân sự với Hoa Kỳ, khiến miền Bắc đã khánh tận và kệt quệ trong cuộc chiến tranh chống Pháp càng lún sâu trong cảnh tượng hoàn toàn đỗ nát và hoang tàn trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, mà ngày nay, qua hành động gần như van nài của Hà Nội để xin lập lại bang giao với Hoa Kỳ vào năm 1996, ai còn chút lương tri bình thường cũng thấy rằng cuộc chiến đó là hoàn toàn vô lý và xuẫn động, mà nguy hiểm hơn nữa là trực tiếp tạo điều kiện thuận lợi cho Trung Cộng tự do xâm lăng Việt Nam, vì Mỹ đã không còn hiện diện ở miền Nam, để ngăn chặn sự bành trướng của Trung Cộng.

Trong tác phẩm Chinh Đề Việt Nam, hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng ngày nay cũng đã được báo động cách đây gần 50 năm:

Sự lệ thuộc nói trên và sự chia đôi lãnh thổ đã tạo hoàn cảnh cho sự chi phối và sự toan thống trị của nước Tàu đối với Việt Nam tái hiện dũng mãnh, sau gần một thế kỷ vắng mặt. Ký ức của những thời kỳ thống trị tàn khốc của Tàu đối với chúng ta còn ghi trong mỗi trang lịch sử của dân tộc và trong mỗi tế bào của thân thể chúng ta.

Các nhà lãnh đạo miến Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

Sở dĩ, tới ngày nay, sự thống trị của Trung Cộng đối với Việt Nam chưa thành hình, là vì hoàn cảnh chính trị thế giới chưa cho phép, và sự tồn tại của miền Nam dưới ảnh hưởng của Tây phương là một trở lực vừa chính trị vừa quân sự cho sự thống trị đó. Giả sử mà Nam Việt bị Bắc Việt thôn tính, thì sự Trung Cộng thôn tính Việt Nam chỉ là một vấn đề thời gian.

Trong hoàn cảnh hiện tại, sự tồn tại của miền Nam vừa là một bảo đảm cho dân tộc thoát khỏi ách thống trị của Trung Cộng, vừa là một bảo đảm một lối thoát cho các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, khi họ ý thức nguy cơ họ đang tạo cho dân tộc. Nhưng ngày nào họ vẫn tiếp tục thực hiện ý định xâm chiếm miền Nam thì họ vẫn còn chịu sự chi phối của chính sách chiến tranh xâm lăng của Trung Cộng, thay vì chính sách sống chung hòa bình của Nga Sô.

Vì vậy cho nên, sự mất còn của miền Nam, ngày nay, lại trở thành một sự kiện quyết định sự mất còn trong tương lai của dân tộc. Do đó, tất cả nỗ lực của chúng ta trong giai đoạn này phải dồn vào sự bảo vệ tự do và độc lập, và sự phát triển cho miền Nam để duy trì lối thoát cho miền Bắc và cứu dân tộc khỏi ách trống trị một lần nữa. (tr.212)

Chính Sách Ngoại Giao

Có lẽ, trong quá khứ, chúng ta quá sùng bái văn hóa Khổng Mạnh và quá lệ thuộc về chính trị đối với các Hoàng Đế Trung Quốc, nên chúng ta đã không xây dựng được một đường lối ngoại giao khoáng đạt như Nhật Bản để có thể cứu nguy cho đất nước, khi dân tộc bị nạn ngoại xâm. Ông Nhu đã kiểm điểm sự thất bại nặng nể của chính sách ngoại giao của các vua chúa ngày xưa qua những dòng dưới đây:

Họa xâm lăng đe dọa dân tộc chúng ta đến nỗi, trong suốt một ngàn năm lịch sử từ ngày lập quốc, trở thành một ám ảnh cho tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta. Và do đó mà lịch sử ngoại giao của chúng ta lúc nào cũng bị chi phối bởi một tâm lý thuộc quốc.

Hai lần Lý Thường Kiệt và Nguyễn Huệ tìm cách đả phá không khí lệ thuộc đó. Nhưng mặc dầu những chiến công lừng lẫy và tài ngoại giao rất khéo, hai nhà lãnh đạo trứ danh của dân tộc vẫn phải khuất phục trước thực tế.

Tâm lý thuộc quốc đè nặng, chẳng những trên sự bang giao, giữa chúng ta và Trung Hoa, lại còn lan tràn sang lĩnh vực bang giao giữa chúng ta và các nước láng giềng. Nếu, đối với Trung Hoa, chúng ta là thuộc quốc, thì đối với các nước chung quanh, chúng ta lại muốn họ là thuộc quốc. Tâm lý đó làm cho sự bang giao, giữa chúng ta và các nước láng giềng, lúc nào cũng gay go. Đã đành rằng công cuộc Nam tiến của chúng ta, là một công trình mà dân tộc đã thực hiện được. Nhưng chúng ta còn thiếu tài liệu để cho các sử gia có thể xét đoán xem, nếu chính sách ngoại giao của chúng ta khoáng đạt hơn, tựa trên những nguyên tắc phong phú hơn thì, có lẽ sự bành trướng của chúng ta sẽ không một chiều như vậy. Ví dụ, một câu hỏi mà chúng ta không thể tránh được: chúng ta là một dân tộc ở sát bờ biển, nhưng sao nghệ thuật vượt biển của chúng ta không phát triển? Nếu chính sách ngoại giao của chúng ta phong phú hơn, và không bó hẹp vào một đường lối duy nhất, có lẽ sự bành trướng của dân tộc chúng ta, đã sớm phát ra nhiều ngõ, và sinh lực của chúng ta không phải chỉ dồn vào mỗi một công cuộc Nam tiến. Nước chúng ta ở vào giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ. Với một chính sách ngoại giao khoáng đạt hơn, sự liên lạc quốc tế của chúng ta có lẽ đã rộng rãi hơn, và do đó, vị trí của chúng ta sẽ, đương nhiên, được củng cố bằng những biện pháp dồi dào và hữu hiệu hơn.

Nhưng thực tế là vậy đó. Họa xâm lăng của Trung Hoa đè nặng vào đời sống của dân tộc chúng ta, đến nỗi, tất cả các nhà lãnh đạo của chúng ta đều bị ám ảnh bởi sự đe dọa đó. Và, để đối phó lại, họ chỉ có hai con đường, một là thần phục Trung Hoa, hai là mở rộng bờ cõi về phía Nam.

Sở dĩ, khi bị Tây phương tấn công, mà các nhà lãnh đạo Triều Nguyễn của chúng ta lúc bấy giờ, không có đủ khả năng quan niệm một cuộc ngoại giao rộng rãi, để khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc Tây phương, là vì các nhà lãnh đạo của chúng ta không lúc nào vùng vẫy, đả phá nỗi không khí tâm lý thuộc quốc đã đời đời đè nặng lên lịch sử ngoại giao của chúng ta. Hành động ngoại giao duy nhất lúc bấy giờ là gởi sứ bộ sang cầu cứu với Trung Hoa. Chúng ta đã biết Trung Hoa đã hưởng ứng như thế nào lời kêu gọi của nhà Nguyễn. Nhưng Trung Hoa cũng đang bị đe dọa như chúng ta, nếu không có lẽ Trung Hoa đã lại thừa cơ hội mà đặt lại nền thống trị ở Việt Nam.

Các sứ bộ của chúng ta gởi sang Pháp lại cũng với mục đích điều đình, thần phục với Pháp như chúng ta quen điều đình, thần phục với Trung Hoa, chớ không phải với mục đích đương nhiên phải có của một hành động ngoại giao, là khai thác các mâu thuẫn để mưu lợi cho mình.

Vì thế cho nên, nếu chúng ta có cho rằng, công cuộc Nam tiến thành công là một kết quả của chính sách ngoại giao một chiều như trên đã trình bày, thì cân nhắc kết quả đó với những sự thất bại mà cũng chính sách ngoại giao đó đã mang đến cho chúng ta trong một ngàn năm lịch sử, thì có lẽ những sự thất bại nặng hơn nhiều.

Sự bành trướng của chúng ta đã thâu hẹp lại và chỉ theo có một chiều, bỏ hẳn cửa biển bao la đáng lý ra phải là cái cửa sống cho chúng ta.

Nền ngoại giao của chúng ta ấu trĩ nên, lúc hữu sự, không đủ khả năng để bảo vệ chúng ta. Trong khi đó, đối với một quốc gia nhỏ lúc nào cũng bị họa xâm lăng đe dọa, thì ngoại giao là một trong các lợi khí sắc bén và hữu hiệu để bảo vệ độc lập và lãnh thổ.

Trong chín trăm năm, từ ngày lập quốc, chúng ta đã bị ngoại xâm tám lần, bảy lần do Trung Hoa và một lần do Tây phương. Chúng ta đẩy lui được sáu lần, chỉ có lần thứ sáu nhà Minh đặt lại nền thống trị, trong hai mươi năm, và lần thứ tám đế quốc Pháp xâm chiếm toàn lãnh thổ và thống trị chúng ta trong hơn tám mươi năm.

Vì vậy cho nên, chốngngoại xâm là một yếu tố quan trọng trong chính trị của Việt Nam. Chính trị cổ truyền, của các triều đại Việt Nam không được quan niệm rộng rãi nên, nếu có phân nửa kết quả đối với sự xâm lăng của Trung Hoa thì lại hướng chúng ta vào một chính sách chật hẹp về ngoại giao. Do đó tất cả sinh lực phát triển của dân tộc, thay vì mở cho chúng ta được nhiều đường sống, lại được dốc hết vào một cuộc chiến đấu tiêu hao chỉ để tranh giành đất dung thân. Một mặt khác, chính sách ngoại giao chật hẹp đã đưa chúng ta vào một thế cô lập cho nên lúc hữu sự, các nhà lãnh đạo của chúng ta không đương đầu nổi với sóng gió, và lưu lại nhiều hậu quả tai hại cho nhiều thế hệ.

Chính sách chống ngoại xâm.

Cái họa ngoại xâm đối với chúng ta hiển nhiên và liên tục như vậy. Vì sao những biện pháp cổ truyền, của các nhà lãnh đạo của chúng ta trước đây, thành công phân nửa, trong công cuộc chống ngoại xâm Trung Hoa, nhưng thất bại trong công cuộc chống ngoại xâm Tây phương?

Trước hết, các biện pháp cổ truyền đã đặt vấn đề ngoại xâm của Trung Hoa là một vấn đề chỉ liên quan đến hai nước: Trung Hoa và Việt Nam. So sánh hai khối Trung Hoa và Việt Nam, và như thế, đương đầu phải là mục đích đương nhiên, thì chúng ta đã thất bại rồi. Những sự thần phục và triều cống chỉ là những biện pháp hoãn binh. Và vấn đề chống ngoại xâm chưa bao giờ được các triều đại Việt Nam đặt thành một chính sách đương nhiên và nguyên tắc, đối với một nước nhỏ, như nước chúng ta. Vì thế cho nên, những biện pháp cần được áp dụng, như biện pháp ngoại giao, đã không hề được sử dụng khi Tây phương xâm chiếm nước ta.

Lý do thứ hai, là công cuộc chống ngoại xâm chỉ được chuẩn bị trên lĩnh vực quân sự. Nhưng, nếu chúng ta không thể phủ nhận tính cách cần thiết và thành quả của các biện pháp quân sự trong các chiến trận chống các triều đại Trung Hoa: nhà Tống, nhà Nguyên cũng như nhà Minh, nhà Thanh, chúng ta phải nhìn nhận rằng nỗ lực quân sự của chúng ta rất là giới hạn. Và ngày nay, độc lập rồi, thì nỗ lực quân sự của chúng ta chắc chắn cũng rất là giới hạn.

Như vậy, đối với một nước nhỏ, trong một công cuộc chống ngoại xâm, biện pháp quân sự không thể làm sao đủ được. Trên kia, chúng ta có đề cập đến những biện pháp ngoại giao, đặt trên căn bản khai thác mâu thuẫn giữa các cường quốc để bảo vệ độc lập cho chúng ta.

Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Nếu ý thức quốc gia và dân tộc được ăn sâu vào tâm não của toàn dân, và độc lập và tự do được mọi người mến chuộng, thì các cường quốc xâm lăng, dầu có đánh tan được tất cả các đạo quân của chúng ta và có thắng chúng ta trong các cuộc ngoại giao đi nữa, cũng không làm sao diệt được ý chí quật cường của cả một dân tộc.

Nhưng ý chí quật cường đó đến cao độ, mà không người lãnh đạo thì cũng không làm gì được đối với kẻ xâm lăng. Vì vậy cho nên, đồng thời với những biện pháp quần chúng nói trên, cần phải áp dụng những biện pháp giáo dục, làm cho mỗi người dân đều quen biết với vấn đề lãnh đạo, và, điều này còn chính yếu hơn nữa, làm cho số người thấu triệt vấn đề lãnh đạo quốc gia càng đông bao nhiêu càng hay bấy nhiêu. Bởi vì, có như thế, những người lãnh đạo mới không bao giờ bị tiêu diệt hết được. Tiêu diệt người lãnh đạo là mục đích đầu tiên và chính yếu của các cường quốc xâm lăng.

Nhân đề cập đến vấn đề chống xâm lăng trên đây, lý luận đã dẫn dắt chúng ta đến một vấn đề vô cùng quan trọng.

Trước tiên chúng ta nhận thức rằng đối với một nước nhỏ như chúng ta, họa xâm lăng là một đe dọa thường xuyên.

Để chống xâm lăng, chúng ta có những biện pháp quân sự và ngoại giao. Nhưng hơn cả các biện pháp quân sự và ngoại giao, về phương diện hữu hiệu và chủ động, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, phát huy ý thức quốc gia và dân tộc, và mở rộng khuôn khổ giới lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Sự thể đã như vậy, thì đương nhiên một chính thể chuyên chế và độc tài không làm sao đủ điều kiện để bảo vệ quốc gia chống ngoại xâm được. Bởi vì bản chất của một chính thể chuyên chế và độc tài là tiêu diệt tận gốc rễ tinh thần tự do và độc lập trong tâm não của mọi người, để biến mỗi người thành một động cơ hoàn toàn không có ý chí, dễ điều khiển dễ đặt để, và dễ sử dụng như một khí cụ.

Bản chất của môt chính thể chuyên chế và độc tài là giữ độc quyền lãnh đạo quốc gia cho một người hay một số rất ít người, để cho sự thấu triệt các vấn đề căn băn của quốc gia trở thành, trong tay họ, những lợi khí sắc bén, để củng cố địa vị của người cầm quyền.

Hơn nữa, giả sử mà chính thể chuyên chế hay độc tài chưa tiêu diệt được hẳn tinh thần tự do và độc lập trong ý thức của mọi người, thì, tự nó, một chính thể chuyên chế hay độc tài cũng là một lợi khí cho kẻ ngoại xâm. Bởi vì, dưới một chế độ như vậy, nhân dân bị áp bức, sẽ đâm ra oán ghét người lãnh đạo họ, và hướng về, bất cứ ai đánh đổ người họ oán ghét, như là hướng về một người giải phóng, mặc dầu đó là một kẻ xâm lăng. Lịch sử xưa nay của các quốc gia trên thế giới đều xác nhận điều này: Chỉ có những dân tộc sống tự do mới chống được ngoại xâm.

Riêng về dân tộc chúng ta, chắc chắn rằng sự kháng cự của chúng ta đối với sự xâm lăng của Tây phương sẽ mãnh liệt hơn bội phần nếu trước đó, nhà Nguyễn, thay vì lên án tất cả những người bàn về quốc sự, đã nuôi dưỡng được tinh thần tự do và độc lập của mỗi người và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc trong nhân dân.

Ngược lại, mấy lần dân tộc thắng được ngoại xâm, từ nhà Trần đánh đuổi Mông Cổ, đến nhà Lê đánh quân Minh và Quang Trung chiến thắng Mãn Thanh, đều nhờ ở chỗ các nhà lãnh đạo đã khêu gợi được ý chí tự do và độc lập của toàn dân.

Và vấn đề vô cùng quan trọng mà chúng ta đã nêu ra trên kia là vấn đề chính thể của nước Việt Nam. Vì những lý do trình bày trên đây, chính thể thích nghi cho dân tộc chúng ta, không phải định đoạt do một sự lựa chọn căn cứ trên những lý thuyết chính trị, hay là những nguyên nhân triết lý, mà sẽ được qui định một cách rõ rệt bởi hoàn cảnh địa dư và lịch sử của chúng ta, cùng với trình độ phát triển của dân tộc.

Nếu bây giờ chúng ta chưa có ý thức rõ rệt chính thể ấy phải như thế nào, thì ngay bây giờ chúng ta có thể quan niệm được rằng chính thể đó không thể là một chính thể chuyên chế hay độc tài được. Đó là một thái độ rất rõ rệt.

Tóm lại theo ông Nhu, muốn thoát khỏi hiểm họa xăm lăng của Trung Hoa, chúng ta phải theo đuổi 3 biện pháp sau đây:

Biện pháp ngoại giao.

Việt Nam cần phải có một sách lược ngoại khôn khéo, biết khai thác những mâu thuẩn giữa các cường quốc, các thế lực của các liên minh khu vực như khối ASEAN, khối Liện Hiêp Âu Châu…vì ngày nay theo khuynh hướng toàn cầu hóa của thế giới, thì ảnh hưởng kinh tế của các quốc gia trên thế giới cỏn có một tác động quyết định tới sự sồng còn đối với Trung Cộng, hơn là 30 hay 40 chục năm trước đây.

Ngày nay, sự mâu thuẩn và tranh chấp giữa các cường quốc không còn gay cấn như thời chiến tranh lạnh, nhưng một quốc gia như Trung Cộng với một dân số hơn 1.3 tỉ người, chiếm tỉ lệ 19.64% dân số thế giới, đang vươn vai đứng dậy với tham vọng làm một cường quốc bá chủ Á Châu. Đó không những là một đe dọa riêng rẽ cho khu vực Á Châu Thái Bình Dương mà còn là một hiểm họa chung cho cả thế giới nữa. Trước đây gần 50 năm, ông Nhu cũng đã đề cập đến vấn đề này,

Không phải tình cờ mà ông Paul Reynaud, cựu Thủ Tướng Pháp trong cuộc viếng thăm nước Nga đã long trọng tuyên bố với Thủ Tướng Krutchev. “ Nếu các ông tiếp tục viện trợ cho nước Tàu, trong vài mươi năm nữa, một tỷ dân Trung Hoa sẽ đè bẹp các ông và Âu Châu”. (Tr. 157)

Trong tháng 9. 2009 vừa qua, nhà cầm quyền Hà Nội, đã cử Tướng Phùng Quang Thanh, sang Tân Gia Ba để ký Hiệp Ước Hợp Tác Quốc Phòng, Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh đến Úc Châu, và Phó Thủ Tướng Phạm Gia Khiêm đến Hoa Kỳ, bí mật thảo luận về vấn đề an ninh lãnh thổ, phải chăng là thái độ nước đến chân mới nhảy, như hai phái đoàn của các vua chúa Triều Nguyễn ngày xưa, chúng ta thử nghe ông Nhu biện giải:

Sau khi Trung Hoa bị tấn công, thì lúc bấy giờ phản ứng của chúng ta là vội vã gửi hai phái bộ sang Pháp và Anh, mà không có một sự chuẩn bị ngoại giao nào cả. Lối gởi phái bộ như vậy là lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay. Và sự gởi hai phái bộ sang Pháp và Anh, theo lối gởi phái bộ sang Tàu xưa nay, lại càng làm cho chúng ta nhận thức, một cách rõ rệt hơn nữa, quan niệm ngoại giao của chúng ta lúc bấy giờ mang nặng ‘tâm lý thuộc quốc’ [đối với Tàu], đến mức độ nào.(tr. 181).

Lẽ ra, các nhà lãnh đạo Hà Nội phải tích cực hơn, phải khôn khéo hơn, nếu không dám công khai, thì ít ra cũng phải bí mật, vận động giới truyền thông thế giới, cảnh báo và vận động dư luận thế giới, trước hết là các quốc gia ở vùng Đông Nam Á Châu, rồi đến Nga Sô, Liên Hiệp Âu Châu và các quốc gia Á Phi biết về hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng. Điều rõ ràng nhất hiện nay, là các quốc gia trong vùng như Úc, Tân Gia Ba, Thái Lan, Nam Duong9 và Mã Lai Á [5], đều gia tăng ngân sách cho tài niên 2009 về Không lực và Hải quận gấp bội, nhằm đối đầu với âm mưu bành trướng của Trung Cộng. Nghĩa là các quốc gia này đều bắt đầu lo sợ về sự lớn mạnh của Trung Cộng, nhưng chưa có một vận động quốc tế nào nhằm qui tụ những nỗ lực này thành cụ thể và tích cực để ngăn chặn sự bành trướng đó. Việt Nam là nạn nhân trước hết và trực tiếp của nguy cơ này, phải biết dồn hết nỗ lực về mặt trận ngoại giao, phải vận động, công khai hoặc bí mật, tất cả các quốc gia trên thế giới nhận thức sâu sắc được mối hiểm họa nghiêm trọng này và khi tạo được sự đồng thuận của đa số… Việt Nam vận động đưa vấn đề này ra Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, dù biết rằng hiện nay Trung Cộng là 1 trong 5 hội viên thường trực của Hội Đồng Bảo An có quyền phủ quyết, mọi nghị quyết của Đại Hội Đồng. Nhưng vấn đề chủ yếu của Việt Nam là chính thức công khai đưa ra trước Liên Hiệp quốc một hiểm họa thực sự nghiêm trọng của toàn thế giới, để kiếm tim một hổ trợ quốc tế tích cực nhằm ngăn chặn âm mưu xâm lăng từ Trung Cộng. Hơn nữa, Việt Nam cũng phải biết vận động và nỗ lực đưa vấn đề này ra trước Tòa Án Quốc Tế ở The Hague (International Court of Justice at The Hague). Mục đích không phải là tìm kiếm một phán quyết của tòa án này cho vần đề tranh chấp, nhưng trọng điểm của nỗ lực này là tạo nên sự chú tâm theo dỏi của dư luân quốc tế về một hiểm họa chung của thế giới

Chúng ta còn nhớ, khi muốn lật đỗ chinh quyền Ngô Đình Diệm, Nhóm chống Tổng Thống Diệm trong Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã vận dộng các quốc gia Á Phi đưa vấn đề được báo chí Hoa Kỳ thời đó gọi là Đàn Áp Phật Giáo và Vi Phạm Nhân Quyền tại Việt Nam, ra trước Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc, chuẩn bị dư luận trước ở các quốc gia Á Phi cho việc thay đổi chính phủ tại miền Nam, trước khi âm mưu tổ chức đảo chánh ở Sài Gòn, để khỏi gây nên những ảnh hưởng tiêu cực tại các quốc gia đó đối với chính sách ngoại giao của Mỹ. Nhưng ông Nhu và Gs. Bửu Hội[6] đã phá vỡ âm mưu này bằng cách chính thức mời Liên Hiệp Quốc cử một phái đoàn đến Việt Nam điều tra tại chổ, trước khi đưa vấn đề này ra thảo luận tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc. Rồi khi phái đoàn này đến Việt Nam điều tra và hoàn thành một bản phúc trinh dày gần 300 trang, với kết luận là không có đàn áp Phật Giáo tại Việt Nam, thì Bộ Ngoai Giao Hoa trở nên lúng túng, sợ rằng nếu đưa vấn đề này ra thảo luận tại Liên Hiệp Quốc sẽ làm giảm uy tín của Hoa kỳ và tạo cơ hội cho Trung Cộng tấn công Hoa kỳ đã xen vào nội bộ của Việt Nam và đã tổ chức đảo chánh ở Saigon, nên cử Cabot Lodge vào đầu tháng 12. 1963, liên lạc với Sir Senerat Gunaewardene của Tích Lan, là trưởng phái đoàn điều tra của Liên Hiệp Quốc lúc đó, đừng đưa bản phúc trình này ra thảo luận tại diễn đàn Liên Hiệp Quốc nữa, và Sir Senerat đã đồng ý làm điều đó như một ân huệ cá nhân của ông dành cho Lodge (Gunawardene agreed to do so as a personal favor to Lodge), vì trước đây khi làm Đại Sứ Hoa kỳ tại Liên Hiệp Quốc, Lodge là bạn của ông.[7]

Như vậy, chúng ta thấy đối với một cường quốc như Hoa Kỳ, họ cỏn biết vận dụng Diễn Đàn Liên Hiệp Quốc hỗ trợ cho những mục tiêu chính trị của họ. Tại sao Việt Nam đứng trước một hiểm họa đe dọa sinh tử đến vận mạng của cả dân tộc, chúng ta lại không vận động để tìm hậu thuẩn của thế giới để bảo vệ nền độc lập của chúng ta ?

Nhưng thực tế, chúng ta rất đau lòng, khi thấy, các nhà lãnh đạo Hà Nội, về phương diện ngoại giao, đã đánh mất rất nhiều cơ hội lịch sử quí báu, để khôi phục độc lập cho dân tộc và phát triển quốc gia. Đó là cơ hội của những năm 1945, 1954, 1973 và 1975. Thực vậy, nếu ngày xưa các vua chúa Triều Nguyễn, vì quá tin tưởng vào văn hóa Trung Hoa đã trở nên tự tôn và thiển cận, thì ngày nay các nhà lãnh đạo Hà Nội cũng quá sùng bái chế độ Cộng Sản và quá tin tưởng vào lý luận giai cấp đấu tranh, đã trở nên mù quáng, xem mọi người đều là kẻ thù, nên chưa bao giờ họ có thể đề ra một chính sách ngoại giao khoáng đạt và lương hảo, còn về phương diện quốc nội họ cũng không có đủ cởi mở, để thực tâm mời những thành phần khác biệt chính kiến, thành lập một chính phủ đoàn kết để phất triển quốc gia. Trái lại, họ chỉ có những thủ đoạn chính trị gian trá và xão quyệt để lừa dối đối phương, để rồi cuối cùng là tiêu diệt đối phương. Điều này chứng tỏ hết sức rõ rệt khi nhìn về lịch sử Việt Nam Cận và Hiên Đại. Năm 1946, Cộng Sản dùng chiêu bài chính phủ Liên Hiệp, để tiêu diệt phe Quốc Gia, rồi năm 1954, ký hiệp định Genevea, chưa ráo mực, họ đã vi pham hiệp định này, bằng cách gài lại hơn 70,000 cán bộ tại miền Nam với âm mưu khuynh đảo chính quyền Quốc Gia Việt Nam. Đến năm 1973, một lần nữa, họ đã lừa phỉnh để tiêu diệt phe quốc gia dưới chiêu bài mới là Hòa Hợp và Hòa Giải Dân tộc. Còn đối với quốc tế, khi ký hiệp định Paris, họ long trọng cam kết để nhân dân Miền Nam hoàn toàn tự do quyết định vận mạng của mình. Ngay sau đó, khi người Mỹ, theo đúng cam kết của hiệp định này, rút khỏi miền Nam, thì họ đem quân xóa sỗ chinh phủ Sài Gòn…Với một những phương cách gọi là liên hiệp, hợp tác và một lịch sử bang giao đầy phản trắc và gian trá như vậy, ai còn có thể tin tưởng vào Hà Nội để hợp tác hữu nghị. Do dó, từ ngày cướp chính quyến tại Hà Nội vào tháng 8 năm 1945 đến nay, các nhà lãnh đạo miền Bắc bị đuôi mù bởi lý thuyết Mác-Lênin và Mao Trach Đông, theo đuổi một chế độ độc tài phi nhân, tàn sát và thủ tiêu các thành phần bất đồng chính kiến, đầy đọa toàn dân trong cảnh nghèo đói, thất học, thù hận và bắn giết lẫn nhau. Còn về phương diên quốc tế, vì thiếu hiểu biết và chỉ biết quyền lợi của phe nhóm, nên họ đã liên kết với Trung Cộng và Liên Sô, để đưa toàn thể dân tộc vào một cuộc chiến tranh kéo dài hơn 30 năm. Đó là một cuộc chiến tranh lâu dài và khốc liệt nhất trong lich sử nhân loại. Thực vậy, lâu dài nhất vì cuộc Thế Chiến I, chỉ có 4 năm, từ 1914-1918, Thế Chiền 2, chỉ có 6 năm, từ 1939-1945, và khốc liệt nhất, vì số bom đạn được sử dụng trong chiến trường Việt Nam gấp 2.5 số bom đạn dùng trong Thế Chiến 2. Nhưng điều tệ hại hơn nữa, khi nhận viện trợ từ Trung Cộng để đánh Mỹ cũng là lúc họ đã thực sự rước họa xâm lăng từ phương Bắc vào Việt Nam.

Đối với những nhà lãnh đạo có một não trạng bệnh hoạn như vậy làm sao có được một viễn kiến chính tri sâu sắc, một chinh sách ngoại giao khoáng đạt và biết khai thác những mâu thuẩn quốc tế để kiếm tìm nhũng đồng minh hữu hiệu, để rồi cùng với sự hỗ trợ tích cực của toàn dân trong nước, nhằm tạo thành một sức mạnh dũng mãnh để chống lại hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng

Biện Pháp Quân Sự

Hiện nay, Việt Nam có một đội quân khoảng 450,000 người. Đây là một lực lượng quân sự lớn nhất so với các quốc gia tại Đông Nam Á hiện nay. Nhưng vấn đề đặt ra liệu quân nhân dưới cờ còn có tinh thần để hy sinh và chấp nhận gian khổ để chiến đấu nữa hay không? Khi chính họ chứng kiến những thực trạng xã hội quá phũ phàng trước mắt, trong khi các lãnh tụ của họ tìm mọi cách để vơ vét tài sản quốc gia cho cá nhân, gia đình và phe nhóm, còn tuyệt đại đa số dân chúng, trong đó có cả các gia đinh bộ đội Cộng Sản, bị bóc lột, sống trong cảnh khốn cùng nhất, chưa từng thấy trong lịch sử cận đại Việt Nam, từ trước tới nay, nghĩa là còn cơ cực hơn thời Thực Dân Pháp đô hộ đất nước chúng ta. Nhưng sau hết và mấu chốt hơn hết, vẫn là vấn đề các nhà lãnh đạo Hà Nội có còn ý chí để chiến đấu nhằm bảo vệ tổ quốc chống lại họa ngoại xâm nữa hay không? Chúng ta hơi bi quan, khi nghe lời bình luận của Carl. Thayer, một chuyên gia về các vấn đề Việt Nam, tại Học Viện Quốc Phòng Hoàng Gia Dantroon của Úc. có lẽ bây giờ các nhà lãnh đạo Hà Nội đã trở nên quá giàu có, họ muốn được yên thân để bảo vệ tài sản và gia đình của họ hơn.. cho nên việc mất thêm một vài hải đảo xa xôi như Hoàng Sa và Trường Sa, mất thêm một ít lãnh thổ và lãnh hải ở phía Bắc không còn là vấn đề quan trọng với họ nữa !

Biện Pháp Chính Trị

Đó là nuôi dưỡng tinh thần độc lập, tự cường, tự chủ cùng ý thức quốc gia và dân tộc. Ông Nhu đã biện giải vấn đề này như sau:

Tuy nhiên biện pháp cần thiết nhất, hữu hiệu nhất và hoàn toàn thuộc chủ động của chúng ta, là nuôi dưỡng tinh thần độc lập và tự do của nhân dân, và phát huy ý thức quốc gia và dân tộc. Đồng thời, áp dụng một chính sách cai trị khoáng đạt, mở rộng khuôn khổ lãnh đạo, để cho vấn đề lãnh đạo quốc gia được nhiều người thấu triệt.

Và sau cùng ông Nhu đã đi đến kết luận, muốn thắng hiểm họa xâm lăng của Trung Cộng một chính thể chuyên chế hay độc tài như Hà Nội hiện nay, không thể nào thành công được.

Trong khi đó, chúng ta đều biết rằng hiện nay thế giới đang chứng kiến những thay đổi khốc liệt nhất, đặc biệt là trong lãnh vực tin học và khoa học kỹ thuật, còn trong lĩnh vực chính trị ngoại giao, như Tổng Thống Obama, cũng kêu gọi, một sự hợp tác và hòa giải giữa các quốc gia, để đẩy lùi bóng tối của chiến tranh và nghèo đói, nhằm kiến tạo một kỷ nguyên hữu nghị, hợp tác, hòa bình và thịnh vượng cho toàn thế giới, thì các nhà lãnh đạo của Hà Nội vẫn giữ nguyên bản chất của Cộng Sản là độc quyền lãnh đạo, độc tài toàn trị và để cũng cố chính quyền chuyên chế, họ thẳng tay đàn áp đối lập, các giáo hội tôn giáo chân chính, áp dụng chính sách đầy đọa người dân trong cảnh nghéo đói, chậm tiến và thất học… để trong nước không còn ai có thể chống đối lại họ được.

Với những kiểm điểm sơ lược trên đây, chúng ta đều thấy trước rằng, nếu dân tộc chúng ta không còn cơ may để thay đổi thành phần lãnh đạo tại Bắc Bộ Phủ, thi vấn đề Việt Nam nội thuộc nước Tàu chỉ còn là vấn đề thời gian.

Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu

Melbourne, 1. 11. 2009

Ghi chú:

[1] Linh Muc De Jaegher, Cố vấn thân cận của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và Tổng Thống Tưởng Giới Thach, đàm luận với tác giả tại Sàigòn vào 6. 1966.

[2]. Sách được xuất bản mang tên Tùng Phong, Chính Đê Việt Nam, Saigon-Việt Nam, 2009

[3] Xin xem các diễn văn này trong La Voix de la Juste Cause, Recueils Des Principaux Discours et Meassages du President Ngo Dinh Diem, June 1954 – Juillet 1963, Saigon, Service de la Press de la Presidence de la Republique du Vietnam, 1963. Các diễn văn này thường được ông Phạm Đình Khiêm dịch ra Việt ngữ và Gs. Tôn Thất Thiện ra Anh ngữ.

[4] Có lẽ vì đánh máy sai, nên trong ấn bản in là vĩ tuyến 17, thực tế lá vĩ tuyến 16, chú thich của người viết.

[5] Nước Úc trong bản ngân sách 2009-2010, đã gia tăng hơn 6.6.tỉ bạc (từ 19.8 tỉ lên 26.4 tỉ), để gia tăng khả năng không lực và hải quân nhằm bảo vệ lãnh thổ. Điều này khiến chính quyền Nam Dương phải quan ngại, sau đó chính phủ Úc đã phải lên tiếng trấn an.

Còn Thái Lan trong bản ngân sách 2008, ngân sách dành cho Bộ Quốc Phòng đã tăng lên tới 4.5 tỉ US dollars, đă quan mặt cà Nam Dương và Mã Lai về chi phí quốc phòng.

Tân Gia Ba trong bản ngân sách 2009, họ cũng đã dành đến 34% cho ngân sách quốc phòng. Nhưng từ lâu Tân Gia Ba, có lẽ, đã thấy trước được hiểm họa xăm lăng của Trung Quốc, nên họ đã có những thỏa hiệp liên kết quân sự với Hoa Kỳ từ năm 1990 với thỏa hiệp MOU và đến 2005 họ đã ký hiêp ước Hợp Tác Quân Sự với Hoa Kỳ. Nam Dương đã để chi phí quốc phòng vào hàng ưu tiên thứ 3 trong bản ngân sách 2008 với ngân khoản là 3.3 tỉ US dollars.

Còn Mã Lai, muc tiêu của ngân sách 2008, dành ưu tiên cho phúc lợi toàn dân, nên chi phí quốc phòng phải bị cắt giảm tối đa, nhưng riêng chi phí dành cho Không Lực Mã Lai, không bị cắt giảm mà lại còn được gia tăng từ 1,482 tỉ Mã kim lên đến 1,613 tỉ Mã kim để gia tăng khả năng phòng thủ quốc gia.

[6] Giáo sư Bửu Hội là một phật tử và thân mẫu của giáo sư là Sư Cô Diệu Huệ, lúc đó Giáo sư được Tổng Thống Diệm cử làm trưởng phái đoàn đặc biệt tại Liên Hiệp Quốc từ tháng 9. 1963, đặc trách về cuộc Khủng Hoảng Phật Giáo.

[7] Theo sự tiết lộ cùa Bà Swarna L. Ganawardene, con gái cùa Sir Senerat, trong thư gởi cho Bà Anne Blair, (một đồng nghiệp của người viết tại Đại Học Monash trước đây), vào tháng 11. 1989. Và cũng có thể xem thêm Điện văn số 2444 từ Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ gởi cho Tòa Đại Sứ Mỹ Saigon, ngày 11. 12. 1963 dưới tiêu đề Gunawardene’s killing the debate. xem Anne Blair, Lodge in Vietnam, A Patriot Abroad, New Haven, Yale university Press, 1995, tr. 78

Nguồn

Advertisement

9 thoughts on “Hiểm Họa Xâm Lăng – Ngô Đình

  1. GIÁ TRỊ XÃ HỘI MỚI và ẤP CHIẾN LƯỢC

    Đời sống dân chúng mới chính là mục đích. Ấp Chiến Lược chỉ là phương tiện (Ngô Đình Nhu).

    Thang giá trị xã hội mới đã được đề cập trong hương ước của Ap chiến lược . Đây là một quan điểm Cách mạng hết sức tiến bộ và cũng là một công tác cách mạng hết sức quan trọng có ảnh hưởng rất nhiều đến hướng tiến và sức tiến của dân tộc. Mục tiêu của cuộc đại Cách mạng này là xóa bỏ, thay dổi không phải chỉ trên phương diện sinh hoạt, hành động. Nó còn nhắm thay đổi, xóa bỏ mọi quan niệm, nhận thức cổ hủ, vị kỷ chỉ nhằm phục vụ lợi ích của một thiểu số hoặc cá nhân, không phục vụ ích lợi chung, không mưu cầu phúc lợi cho mỗi con người, không bảo vệ, phát huy phẩm giá của con người và công bằng xã hội, cho mọi giới trong xã hội của chúng ta .

    Để thực hiện được cuộc Cách mạng này, Tổng Thống Ngô Đình Diệm cũng như Cố vấn ông Ngô Đình Nhu, nhà tư tưởng và chiến lược gia của Đệ I Việt Nam Cộng Hòa khẳng định: Phải trường kỳ và tích cực chống lại và tiêu diệt hai thứ giặc Chậm tiến và Chia rẽ mà dân tộc phải gánh chịu do hậu quả của nhiều thế kỷ đất nước bị ngoại trị để lại. Đồng thời phải can trường và cương quyết chống lại giặc cộng sản hiện nay và mọi tham vọng đến từ bên ngoài đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ, nền độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia trong hiện tại cũng như tương lai.

    Để tìm hiểu đường lối thể hiện quan điểm Cách mạng trên một cách rõ ràng hơn, trong pham vi hạn hẹp của tập kỷ yếu này, dưới đây, chúng tôi chỉ xin lược thuật đại cương lời ông Ngô Đình Nhu giải thích về quan điểm ấy, phần liên quan đến hai giới mà cho đến thời điểm lúc bấy giớ (thập kỷ 50), vốn được coi là thấp kém nhất trong xã hội VN chúng ta. Những lời giải thích này tôi đã ghi nhận khi, trong một dịp đặc biệt , tôi được ông Nhu giảng giải cho biết về mục đích chính yếu của Ap Chiến Lược, “Thang giá trị xã hội mới đựơc hình thành theo một nhân sinh quan hướng về chân lý, xây dựng trên căn bản duy linh.

    Coi con người là một bản thể gồm hai phần: thể xác và tâm linh hiệp nhất, được tác thành do công trình của tạo hóa; coi cuộc sống là sự bảo tồn và phát triển đồng đều, toàn diện của bản thể đó trong tinh thần nhân vị và cộng đồng. Do đó, con người VN sống trong nền văn minh mới sẽ phải có một nhân sinh quan mới có đủ mãnh lực hướng dẫn cuộc sống bảo đảm được bản năng siêu việt của con người, phát triển điều hòa cả hai phương diện tâm linh và thể xác, bảo đảm được đầy đủ các yếu tố nhân vị.

    – Tinh túy trong tâm linh
    – Tế nhị trong thể xác.

    Đó là hai định hướng để xây dựng Nhân Sinh Quan mới của con người VN. Đi sai định hướng đó, mọi hành động trong đòi sống sẽ bị lạc hướng.

    Bởi vậy, đễ đi theo đúng hai định hướng trên, Việt Nam trong nền văn minh mới phải tích cực thực hành Nhân Vị, phải có trách nhiệm với chính bản thân mình, tự mình phải làm cho nhân vị mình có bản lĩnh, nhờ sự rèn luyện ý chí để tự túc, tự tại, mở mang, phổ biến những cái mình sẵn có và có thể có, theo bản tính và năng lực mình.

    Ngoài ra vì Nhân Vị phải nảy nở trong cộng đồng, cho nên con người còn phải kính nể quyền lợi của kẻ khác, tôn trọng ích chung của đồng bào và Tổ quốc, phải biết bảo vệ và tranh đấu cho lẽ phải, cho tự do khỏi bị xâm phạm và lấn át, để xây dựng, bảo tồn và phát triển cộng đồng.

    Phát xuất từ một nhân sinh quan đúng đắn vừa nói, Giá Trị Quan trong nền văn minh mới VN sẽ được xác định căn cứ theo đức tính nội tại của con người thể hiện bởi những hoạt động do nhân sinh quan mới chỉ đạo, và cương quyết phá bỏ những Giá Trị Quan lạc hậu, lỗi thời đã từng làm đình đốn sự phát huy các đức tính tốt đẹp và đà tiến của dân tộc ta như:

    – Trong thời phong kiến, bằng cấp khoa cử được coi là tối trọng, kẻ sĩ là bậc đại nhân trong xã hội, được suy tôn là hiền nhân quân tử và đứng riêng một đẳng cấp trên hết thảy các đẳng cấp trong xã hội. Mọi yếu tố khác đều không đáng kể. Ai không là người khoa cử xuất thân đều phải đứng hàng thứ đẳng. Trong thời đại này còn nảy sinh ra hạng tiểu nhân, hạng người luôn luôn phải có bổn phận phục tùng hàng quân tử và phải chịu cho những người có bằng khoa cử sai khiến.

    – Đến thời thực dân, tình trạng trên còn bị pha trộn thêm ảnh hưởng của Tây phương, thành ra giá trị của con người lại cũng chỉ được căn cứ vào bằng cấp, tiền tài và quyền thế. Ba điều kiện này liên hệ mật thiết với nhau tạo nên một thế đứng vững chắc cho những kẻ hội đủ các điều kiện đó và nâng mãi địa vị của những người này. Ai có tiền tài sẽ có điều kiện ăn học, được ăn học tất nhiên sẽ có bằng cấp, có bằng cấp là dành được địa vị, và địa vị lại tạo nên quyền thế, tiền tài, và cứ thế họ luôn luôn đứng đầu hệ thống giá trị xã hội bất kể đến giá trị nội tâm.

    Cho đến sau biến có tháng 8/45, lợi dụng được cơ hội xuất đầu lộ diện, Cộng sản đã hết sức khoa ngôn là đảo lộn giá trị xã hội, đánh đổ giai cấp thống trị cũ để trả lại giá trị cho thành phần đông đảo nhất.

    Cũng như Trung cộng, nước ta không có hoàn cảnh tập trung công nhân, nên VC không thể dùng giai cấp này làm bung xung như thủy tổ Các Mác đã dạy, do đó chúng đã lấy bần cố nông làm chiêu bài trong ván cờ đoạt quyền thống trị của chúng.

    Việt cộng lớn tiếng tuyên truyền rằng giai cấp cố nông là đạo quân tiên phong trong cách mạng, là giai cấp bị bóc lột nhất nên phải dành lấy quyền lãnh đạo để giữ quyền thống trị các giai cấp khác. Chúng cổ võ cho cái gọi là chính quyền “công nông liên minh” và dấu diếm sự tàn bạo trong việc tiêu diệt mọi người trong cái thuyết “vô sản nhân dân chuyên chính.”

    Thực ra đó chỉ là một luận lý bịp bợm để chúng có điều kiện tiêu diệt tầng lớp hữu sản với khẩu hiệu “trí, phú, địa, hào-đào tận gốc, trốc tận rễ.”

    Rồi để dễ phỉnh gạt, Cộng sản luôn đề cao bần cố nông, nói rằng bần cố nông là giai cấp có giá trị nhất, còn trí thức thì không bằng cục phân, tiểu tư sản thì hèn nhát, đê tiện, điền chủ thì đại gian ác v.v..Tất cả đều phải tiêu diệt. Dựa vào lập luận này Cộng sản phủ nhận quan niệm giá trị của Thực, Phong, nhưng đồng thời cũng phủ nhận tất cả giá trị nội tại và thiêng liêng của con người.

    Điểm qua các giá trị quan đã có ảnh hưởng hoặc đã xảy ra trong xã hội ta từ trước đến nay như vừa đề cập, ta thấy không lúc nào giá trị nội tại của con người phục vụ cho các mục tiêu giải phóng dân tộc và giải phóng con người được coi là trọng.

    Do đó, để xác định một giá trị quan thích hợp với nền văn minh mới, ngày nay giá trị con người sẽ không phải do tiền tài, địa vị. Giá trị con người cũng không căn cứ vào đẳng cấp, vào văn bằng hay giòng dõi.. Giá trị quan ngày nay sẽ căn cứ vào sự thể hiện nhân sinh quan đứng đắn trong hoạt động để phục vụ cho con người và cho cộng đồng.

    Cụ thể hóa vấn đề, giá trị quan ngày nay sẽ căn cứ vào sự hoạt động phục vụ cho sự nghiệp hoàn thành cách mạng nhân vị mà nhiệm vụ trước mắt và cấp thiết là diệt 3 thứ giặc: Cộng sản, Chậm tiến và Chia rẽ.

    Ngoài ra, vì cách mạng VN dựa trên căn bản nhân vị cộng đồng, cho nên một thành phần xã hội đã từng bị thiệt thòi trong các thời đại trước, là tầng lớp bần nông và thợ thuyền cũng sẽ được trả về cho họ một giá trị xứng đáng với phẩm giá con người và vài trò của họ trong xã hội để họ có điều kiện vươn lên một cuộc sống văn minh và tiến bộ.

    Trong nền văn minh mới, thành phần sản xuất (thợ thuyền, bần nông,) sẽ không còn là một giai cấp của đáy tầng xã hội, phải chịu những thiệt thòi, những bất công và chịu một sự đối xử bất tương xứng cùng sự khinh rẻ của xã hội như trước nữa.

    A/- Với giới quân nhân. Áp dụng giá trị quan vừa được trình bày trên đây và thực tế của xã hội mới VN ngày nay, những thành phần sau đây xứng đáng được hưởng sự ưu đãi và quý trọng của xã hội.

    Thứ nhất: là những người cầm vũ khí chống địch (những người chống giặc cộng sản và gia đình con cái họ).

    Trong hàng ngũ những người cầm võ khí chống giặc cộng sản vừa nói, người mà tinh thần cùng thành tích phục vụ càng cao thì thứ bậc càng vinh quang, và các bậc anh hùng đã hy sinh tính mạng phải là những người có giá trị cao cả nhất.

    Thứ hai: là những phần tử dân cử (Hội đồng xã, Ban trị sự Ấp, các người lãnh đạo các đoàn thể) để điều hành công việc chung (những người chống giặc chia rẽ).

    Thứ ba: là những thành phần sản xuất trong ấp, xã tức là bần nông, thợ thuyền v.v.(những người chống giặc chậm tiến).

    Sự sắp xếp hệ thống giá trị như trên không những thể hiện sự công bằng của chế độ, mà còn là phát huy tinh thần ân nghĩa, một tinh thần truyền thống quý báu của dân tộc ta đối với những người có công lao tài bồi đất nước, bảo vệ hạnh phúc của nhân dân.

    Những người cầm súng chống CS là những người có hành động dũng cảm, chịu trăm cay nghìn đắng, vào sinh ra tử, nếm mật nằm gai, có khi rơi đầu đổ máu, hy sinh cả tính mạng để cho Tổ quốc được vinh quang, nhân dân được yên vui.

    Họ là những người trung thành với sự nghiệp đấu tranh của dân tộc, phấn đấu đem lại tự do cho nhân dân, vì quyền lợi của nhân dân mà hy sinh tính mạng một cách oanh liệt. Không có họ thì những thắng lợi vinh quang trong công cuộc diệt Cộng cứu quốc của dân tộc ta không thể nào có được.

    Vả chăng nếu ta nghĩ rằng: địa vị cao cả trong hệ thống giá trị xã hội là cái mà Chính phủ và nhân dân căn cứ vào tất cả công lao thực sự, nhiều hay ít đã cống hiến cho quốc gia, cho dân tộc để đền đáp, thì tất nhiên công lao càng nhiều, vinh dự càng cao.Và do đó, các phần tử cầm vũ khí chống địch nghiễm nhiên là những người có công lao nhất đối với Tổ quốc, với nhân dân. Không có xương máu của thành phần này đổ ra thì an ninh của Tổ quốc không có. Không có an ninh thì làm sao học hành, buôn bán, cấy cày v.v…

    Vì thế, trong tâm trí nhân dân họ là những người được tôn kính nhất, nhân dân luôn luôn và đời đời tưởng nhớ công ơn họ , noi gương họ, tên tuổi họ mãi mãi bất diệt trong sử sanh của dân tộc.

    Vậy xã hội dành cho họ địa vị cao cả nhất, được sự quý trọng nhất, ưu đãi nhất, là một lẽ tất nhiên, rất chính đáng. Không ai có thể phủ nhận được.

    Về phần gia đình họ xã hội cũng dành những vinh dự và đãi ngộ cao cả kế tiếp vì chính đó là một sự kiện chứng tỏ chế độ ta hết sức tôn trọng và bảo tồn căn bản gia đình, coi gia đình là nền tảng của quốc gia. Và cũng để làm sáng tỏ lý tưởng nhân vị quan niệm con người là toàn bộ chớ không phải con người là một con số hay một cá nhân. Con người có gia đình, có chỗ ở, có ruộng đất. Tất cả những cái đó ta phải tôn trọng, căn bản của con người ở trong đó. Cụ thể hơn, như anh em quân nhân, bảo an, dân vệ, họ vào sinh ra tử, hy sinh hơn người khác, khi họ vắng mặt gia đình họ còn bị thiếu sót, bị địch dọa nạt, nếu họ thấy gia đình họ cũng chỉ được đối xử y hệt như những người khác thì dĩ nhiên tinh thần phục vụ chiến đấu của họ sẽ bị ảnh hưởng.

    Mặt khác, nếu một dân tộc có quyền hãnh diện vì có những chiến sĩ sẵn sàng hy sinh cho chính nghĩa và có quyền thừa hưởng công lao của các chiến sĩ đó, thì tất nhiên gia đình của các chiến sĩ ấy có quyền thụ hưởng trực tiếp và trước hết, công lao của thân nhân họ. Hơn nữa, nếu khi Tổ quốc có một chiến sĩ thân yêu gục ngã nơi chiến địa, thì gia đình chiến sĩ là những người thiệt thòi và đau khổ nhất…

    B/- Với nữ giới. Thế giới Tự do cũng như Cộng sản đều lớn tiếng đề cao nữ quyền, bênh vực nữ quyền. Nhưng trên thực tế chúng ta đều thấy trong cả hai thế giới này mọi mánh khóe lừa bịp đã được tận dụng một cách rất tinh vi, ác độc để khai thác người phụ nữ.

    Phía Tự do, có những thê lực chuyên làm giàu bầng nghề khai thác thân xác phụ nữ. Lạm dụng quyền tự do, họ tận dụng mọi phương tiện sách, báo, phim, ảnh, truyền thanh truyền hình … tuyên truyền cổ động cho lối sống buông thả, sa đọa, phổ biến những hình ảnh, hành động khêu gợi nhằm kích động dục tính sẵn có trong mỗi con người, để khai thác thân xác người phụ nữ, biến người phụ nữ thành một món đồ cho bọn quyền quý, lắm tiền nhiều bạc mua vui giải trí.

    Phía Cộng sản, xảo quyệt hơn. Một mặt chúng rêu rao đề cao “nếp sống văn minh mới theo đạo lý cách mạng, nghiêm cấm mọi hành vi đồi phong bại tục, cờ bạc trai gái”. Một mặt họ cỗ võ “nếp sống mới theo đạo lý cách mạng”. Đạo lý cách mạng theo họ, là “mọi người dân phải hy sinh không chỉ bản thân mình mà phải hy sinh, dâng hiến tất cả những gì mình có, kể cả vợ con, khi cách mạng cần đến”. Ác độc và vô luân hơn, lợi dụng khí thế chống ngoại xâm dâng cao trong nhân dân, trong khi họ kêu gọi cổ võ “thanh niên tòng quân đánh giặc”, để kích động thanh niên, họ kêu gọi xúi giục “thanh thiếu nữ xung phong ra tiền tuyến, xung phong vào đội hộ lý phục vụ sinh lý cho lãnh đạo và bộ đội” CS.

    Tóm lại trong cả hai thế giới Tự do và Cộng sản, thân phận người phụ nữ không bị dùng làm món hàng chơi giải trí ở phía này thì lại bị dùng làm chất xúc tác kích động lòng tự ái, tính ham vui háo sắc, để xua đám thanh niên trai trẻ vào làm mồi cho ngọn lửa chiến tranh ở phía kia. Ở cả hai phía, nhân phẩm người phụ nữ không những không được tôn trọng và bảo vệ, ngược lại còn bị chà đạp một cách không thương xót.

    Đối với đất nước chúng ta, tuy đã tiếp xúc với văn minh Au Tây gần một trăm năm dưới thời Pháp thuộc, ảnh hưởng lời tuyên truyền bịp bợm về lối sống mới theo cái gọi là đạo đức cách mạng của cộng sản, nhưng trong tâm trí tuyệt đại đa số nhân dân, ảnh hưởng tư tưởng Khổng-Nho vẫn còn hết sức sâu đậm.

    Điều rất đáng tiếc là hầu hết lại chịu ảnh hưởng thứ tư tưởng Khổng-Nho hủ lậu của bọn được gọi là Tống Nho. Đây là một triết lý sống phản tiến hóa, hết sức vô nhân đạo và trái với đạo lý làm người đối với người phụ nữ, do giới hủ Nho đời Tống xướng xuất. Nhưng triết lý sống này đã được giới quan lại và giàu có trong chế độ phong kiến ở nước ta triệt để khai thác và áp dụng. Triết lý sống ấy “dạy” rằng:

    “Trai năm thê bảy thiếp
    Gái chính chuyên một chồng”.

    Và “Tại gia tòng phụ
    Xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”.
    (Ở nhà theo cha Lấy chồng theo chồng, chồng chết theo con.)

    Triết lý này cho thấy rõ trong đời sống xã hội, người phụ nữ Việt nam không có một chỗ đứng riêng cho mình, hoàn toàn bị dặt trong vòng kiềm tỏa của nam giới. Bị tước đoạt hết nhân phẩm, mọi quyền lợi thiên phú, bị biến thành một món hàng phụ thuộc được xử dụng theo ý muốn của đàn ông.

    Trong đời sống cá nhân, gái chính chuyên một chồng là đúng. Nhưng tại sao nam lại có quyền năm thiếp bảy thê? Như vậy chẳng quá bất công sao? Trong đời sống gia đình, vợ hay chồng đều có trách nhiệm, có bổn phận với con cái, với hạnh phúc của chung và của mình ngang nhau. Không thể chấp nhận quan niệm: “Nuôi con là trách nhiệm của đàn bà. Tự do trăng hoa bay bướm là quyền của đàn ông”.

    Trong đời sống cần lao, sức lao động của họ cũng được đánh giá theo đẳng thức của nam giới. Ta thường nói đàn bà chân yếu tay mềm. Đó là một sự thật, một chân lý. Vì Tạo hóa sinh ra người đàn bà với dáng vẻ thùy mị, tính tình hiền hòa nhẫn nhục, nói năng dịu dàng hơn đàn ông, là để giúp họ chu toàn thiên chức làm mẹ. Vì vậy, trong đời sống hằng ngày họ phải phụ thuộc phần nào vào cha, vào chồng, vào con trai đã trưởng thành; nhưng sự nâng đỡ, phụ giúp họ của những thành phần này cũng là điều đạo lý đòi hỏi. Lợi dụng sự nhẫn nhục chịu đựng và những đức tính quý giá này của họ, để bắt họ phải lao động như nam giới, không thừa nhận quyền đối kháng, quyền có ý kiến, nhận thức khác mình là một tư tưởng độc tài, tàn ác, vô đạo đức.

    Tất cả các tư tưởng, tập tục hủ lậu, ích kỷ trên đây cần phải được triệt tiêu trong đời sống của xã hội văn minh mới của Việt Nam. Vì như trên mới nói, xã hội văn minh mới của chúng ta được xây dựng trên căn bản “Nhân vị- Cộng đồng”, nên không thể để một thành phần nào trong xã hội cũng như cộng động bị thiệt thòi hay bị đối xử bất công. Mọi triết lý, mọi chủ trương chỉ nhằm khai thác con người phục vụ lợi ích cá nhân hay tập thể, không có mục đích tối hậu là “phục vụ con người-thăng tiến nhân vị” chúng ta đều không chấp nhận.

    Giải phóng người phụ nữ khỏi tất cả những tập tục, triết lý sống hủ lậu vô đạo đức nói trên là chủ trương của chế độ. Chúng ta có bổn phận phải tích cực thực hiện để bảo vệ quyền lợi cho họ. Đó cũng là một công tác tối ư quan trọng nhằm bảo vệ hạnh phúc, bảo về sự tồn tại của gia đình Việt Nam, chống lại chủ trương vô gia đình của chủ nghĩa Cộng sản. Và, vì như chúng ta đã nhận thức và khẳng định: Gia đình là nền tảng của Xã hội và Tổ quốc.”

    x x x

    Cuộc cách mạng tiến bộ và vĩ đại trên đây đã được Đệ I CH thực hiện qua phương tiện Ap Chiến Lược một cách rất hiệu quả. Trong hồ sơ của bộ Quốc phòng Hoa Kỳ, người ta tìm thấy một báo cáo ghi: Tháng 5-1962 Bộ trưởng Quốc phòng Mac Namara đã được báo cáo về sự cố gắng của quân đội VN đi đến việc không cần nhờ vào sự trợ giúp của quân đội Hoa kỳ tại vùng Cà mau như sau:

    Trung đoàn Trưởng Trung đoàn 31 bộ binh hành quân vào một khu vực do Việt cộng kiểm soát 95%, tuyên bố tình trạng thiết quân luật, rồi đưa 11.000 dân đến tái định cư , trong đó có một số đang bị quản thúc, trong 9 Ap Chiến Lược, cùng lúc đuổi đánh VC ở bất cứ nơi nào chúng xuất hiện. Từ khi khởi sự chương trình (ACL) , không một làng nào bị tấn công và việc không còn phải đóng thuế cho VC hoặc bị chúng tống tiền, đang lối cuốn hầu hết dân chúng. Vị chỉ huy này hy vọng một cách lạc quan không nghi ngờ, rằng ông ta có thể đặt toàn khu vực dưới sự bảo vệ của Địa phương quân và Dân vệ trong vòng 6 tháng tới.

    Một bản thống kê của các cơ quan hữu trách Việt, Mỹ ghi nhận thời gian từ tháng 1-1962 đến tháng 3-1963, hoạt động của cộng sản trên toàn Miền Nam, trong mọi lãnh vực, tấn công, phá hoại, bắt cóc, tuyên truyền, đều giảm sút một cách nhanh chóng và rất đáng kể. Tuyên truyền từ 1000 vụ xuống 650; bắt cóc 550 xuống còn hơn 300; tấn công 180 xuống 120; phá hoại 220 xuống 150. Riêng số cán binh CS về hồi chánh từ 80 lên 400.

    Công cuộc cách mạng nhắm thay đổi, xóa bỏ mọi tập tục, lề thói, quan niệm…lạc hậu, hủ bại, vị kỷ, hiện tồn tại trong xã hội Việt nam, được thực hiện với kết quả đầy khích lệ trong một khí thế phấn khởi, hăng say đang bùng lên ở khắp nơi, khiến một nữ sĩ hưng phấn dệt nên bài thơ:

    Thương nhau xin nhớ lời nhau dặn
    Xây Ấp đêm ngày cho chóng xong
    Giặc cộng hết phương vào quấy nhiễu
    Vườn cây sai trái lúa vàng bông.

    Hoàn thành công tác cho mau chóng
    Lập Ấp thi đua chiếm giải đầu
    Quà cưới tặng nhau bằng chiến thắng
    Thương nhau xin chớ phụ lòng nhau.

    Thương nhau xin nhớ lời nhau dặn
    Quốc sách ta thề thực hiện nhanh
    Dân chủ cờ bay mừng cách mạng

    Hòa vui đầu bạc cạnh đầu xanh
    Ngàn vạn tấm lòng say nhiệm vụ
    Kết tình liên đới vững niềm tin
    Đánh tan 3 kẽ thù nguy hiểm

    Nam Bắc ngày mai sẽ nối liền
    Anh nhé đêm nay đừng đến trễ
    Hào sâu chông đã cắm xong rồi
    Vòng đai thêm lớp rào cho chắc

    Dân Ap yên lòng nếp sống vui
    Công tác hoàn thành và tốt đẹp
    Bấy giờ ta tính chuyện riêng tư
    Giữa niềm vui Ap ta kiêu hãnh
    Dệt chuyện ân tình thỏa ước mơ

    TÔN NỮ HỒNG NGỌC

    …Thì nền Đệ I Việt Nam Cộng Hòa bị lật đổ, Tổng Thống Ngô Đình Diệm và bào đệ Cố vấn Ngô Đình Nhu, linh hồn và lãnh đạo của cuộc cách mạng bị thảm sát. Cuộc phản loạn này đã đưa đất nước lún sâu vào một cuộc chiến tranh tàn khốc suốt mười năm trời. Và, “điều mỉa mai cuối cùng là cuộc chiến tranh nhân dân được phát động năm 1959 đã bị đánh bại (với ACL), và trận chiến của những người lính mà Hoa Kỳ đòi phải chiến đấu trong thập niên 1960 với lực lượng ồ ạt, cuối cùng đã bị kẻ thù chiến thắng”, xô đẩy cả dân tộc VN xuống vũng lầy đầy tội ác, tham nhũng, thối nát, đàn áp, bất công, nhân phẩm, đặc biệt là nữ giới bị chà đạp, miệt thị một cách thê thảm chưa tùng có trong lịch sử dân tộc, như chúng ta đang chứng kiến hiện nay!

    Qua trích đoạn ngắn trên đây từ tác phẩm “Lost Victory”, tạm dịch: “Chiến Thắng Bỏ Mất” , của tác giả William Colby, cựu Giám đốc cơ quan Tình báo (CIA) tại Sài gòn từ 1959-1962, thời gian Đệ I CH chuẩn bị và thực hiện quốc sách Ap Chiến Lược. Óng và Sir Robert Thompson, chuyên viên chống chiến tranh du kích của Anh quốc, là hai người được Cố vấn Ngô Đinh Nhu tham khảo ý kiến nhiều lần về mặt chiến thuật, khi soạn thảo kế hoạch thực hiện ACL. Người ta có thể khẳng định:

    Nếu cuộc cách mạng xây dựng một nền văn minh mới trên căn bản NHÂN VỊ-CỘNG ĐỒNG trên đây không bị phản bội, thì chắc chắn quê hương, dân tộc, và đồng bào ta đã không phải gánh chịu những thảm họa quá đau thương, manh nha từ những năm sau 1963 và triệt để tàn khốc sau ngày 30-4-1975, dưới ách một chế độ lạc hậu, hiểm đôc và tham tàn nhất, trong vài chế độ Cộng sản còn sót lại trên trái đất hiện nay. Đôc lập không có Tư do, lãnh đạo tự tung tự tác. Nhân dân chỉ là một bầy súc vật cung cấp sức lực cầy bừa, thịt, sữa. Cơm áo đói no, rách lành, là bổn phận tự lo. Con người sống không ai quan tâm, chết chẳng ai cần biết. Miễn sao thỏa mãn tự ái, kiêu căng, ngạo mạn của tâp thể cầm quyến.

    Có Độc lập có Tự do. Với mồi cơm no áo ấm phủ phê, thú tính cưng chiều thỏa thích. Con người lại bị biến thành một đám thiêu thân, chen lấn xô đẩy nhau vào các hầm Sân, Si, đen tối, để lấp đầy những hố tham không đáy!

    Tóm lại, bất cứ đường lối đấu tranh nào, chủ trương cách mạng nào, không nhắm đến mục tiêu tối thượng là “Phục Vụ Con Người” thì đều là Vô Nghĩa.

    Trích từ soạn phẩm “VỀ MỘT CUỘC CÁCH MẠNG BỊ PHẢN BỘI” , trong phần “TÌM HIỂU ẤP CHIẾN LƯỢC” của người viết. Chưa xuất bản.

    Nguyễn Văn Minh

  2. Anh Chọn Ai?
    Còn Chế Độ CS, Còn Nguy Cơ Đô Hộ Ngoại Bang

    Đỗ Văn Phúc

    Nếu Trung Cộng đánh với Việt Cộng, thì anh sẽ ủng hộ bên nào?

    Đó là một câu hỏi mà chúng tôi thường phải cố gắng né tránh mỗi lần bị bạn bè vặn hỏi trong mấy tuần lễ vừa qua, sau khi sự việc Trung Cộng đưa dàn khoan HD vào sâu trong hải phận Việt Nam có thể làm bùng nổ một cuộc chiến tranh ở Đông Nam Á.
    Sở dĩ phải né tránh, vì đây là một vấn đề rất tế nhị mà bất cứ câu trả lời nào cũng có thể dẫn đến sự hiểu lầm và làm mình bị đả kích bởi chính những chiến hữu của mình do cách nhìn khác nhau trong vấn đề chính trị.
    Ủng hộ Trung Cộng ư? Đó là điều không một người Việt Nam yêu nước nào nghĩ tới. Trung Hoa, từ hàng ngàn năm nay vẫn là một thế lực đe doạ nền độc lập không những của Việt Nam, mà còn của nhiều nước lân bang trong vùng Á Châu. Bàn tay của nó ngày nay còn vói xa tới tận Châu Mỹ Latin và Châu Phi. Chỉ có Hồ Chí Minh và bè lũ Cộng Sản bị đầu độc bởi cái gọi là “tinh thần quốc tế vô sản” mới coi Trung Cộng là thầy, là bạn. Họ đã quỳ mọp dâng biển đảo quê hương để nhận viện trợ quân sự dồi dào nhằm nuốt gọn Miền Nam trù phú, xây dựng nên nền chuyên chính hà khắc đàn áp nhân dân, vơ vét cho đầy túi tham của họ.
    Người Việt Nam yêu nước chắc chắn phải coi Trung Cộng là kẻ thù truyền kiếp.

    Vậy muốn thắng Trung Cộng thì phải ủng hộ Việt Cộng không?
    Cuộc chiến mà chúng ta tưởng phải xảy ra sau những biến cố bạo động ở Việt Nam sẽ chẳng bao giờ có, khi cả tập đoàn cai trị Cộng Sản Việt Nam vẫn khư khư giữ một thái độ hèn yếu, khuất phục trước bọn Tàu Cộng. Trong khi hàng ngàn dân xuống đường biểu tình phản đối bọn côn đồ Trung Cộng, thì những lãnh tụ cao cấp của CSVN vẫn giữ thái độ im lặng. Thậm chí còn phát ra những lời tuyên bố khiếp nhược, vẫn coi trọng cái gọi là tình hữu nghị giữa hai đảng, hai nước. Đánh nhau đến chết người, đắm thuyền mà tên Bộ Trưởng Quốc Phòng VC Phùng Quang Thanh coi là chuyện xích mích nhỏ giữa anh em trong nhà!
    Từ hàng chục năm sau cuộc chiến, Việt Nam Cộng Sản vẫn chưa tìm cho mình một thế đứng độc lập, chưa tìm cho mình những bạn đồng minh đáng tin cậy. Khư khư bảo thủ cái học thuyết Cộng Sản đã bị thế giới chôn vùi từ sau sự sụp đổ của Liên Bang Nga Sô Viết, đám lãnh đạo ngu dốt và ngoan cố của Việt Nam đã bám vào một kẻ thù truyền kiếp để sống còn, mà từ chối những bàn tay thân hữu do Hoa Kỳ và các nước dân chủ chìa ra cho họ. Họ chỉ biết muối mặt nhận tiền viện trợ, đầu tư; mà không dám thay đổi cách nhìn để kết bạn với thế giới tự do. Khi biến cố 11 tháng 9 năm 2001 xảy ra, CSVN đã reo hò vui mừng trước tai biến đau thương của Hoa Kỳ gây ra bởi bọn khủng bố Hồi Giáo. Khi Tàu Cộng đem chiến thuyền quấy nhiễu biển Philippines, VNCS đã im lặng một cách đồng loã. Thì nay khi cần đến, làm sao cả hiệp hội ASEAN có thể lên tiếng bênh vực VN cho dù Nguyễn Tấn Dũng có lên tiếng kêu gọi? Có thể nói, nếu chiến tranh xảy ra bây giờ, VNCS sẽ đơn độc, chẳng có đồng minh nào hỗ trợ, dù Nhật Bản, Đài Loan, Philippines, thậm chí Ấn Độ cùng chia sẻ chung kẻ thù Trung Cộng.
    Nhưng cứ đặt giả thuyết là sẽ có cuộc chiến tranh Việt-Hoa, thì câu trả lời cũng không khó mấy nếu chúng ta minh định đúng đắn lập trường Quốc Gia chống Cộng Sản và các chế độ độc tài.
    Là người Việt Nam, chúng ta coi Trung Cộng là kẻ thù cố hữu, là ngoại xâm.
    Là người Quốc Gia, chúng ta coi chế độ CS là kẻ nội thù không đội trời chung.
    Cả hai kẻ thù đều phải chống, phải tiêu diệt. Tuy nhiên, khi đối phó với chúng, chúng ta cần biết kẻ nào khó chống hơn.
    Đối phó với Trung Cộng, chúng ta có một toàn lực người dân Việt Nam trong và ngoài nước với truyền thống chống ngoại xâm hun đúc từ hàng ngàn năm. Nếu Trung Cộng thắng và chiếm Việt Nam, thì tinh thần yêu nước quật cường sẽ lên cao độ, đất nước sẽ sản sinh ra một Hưng Đạo, một Quang Trung, Lê Lợi để lãnh đạo cuộc kháng chiến thành công. Quân Tàu khó yên ổn trong một đất nước lạ, bao quanh bởi kẻ thù, phong thổ khí hậu khắc nghiệt, và bên ngoài còn cả cộng đồng thế giới sẵn sàng yểm trợ chúng ta.
    Trong trưòng hợp CSVN đánh và thắng, dân tộc Việt Nam lại tiếp tục đắm chìm trong chế độ cai trị tàn khốc. Bọn CSVN lại thêm một lần huyênh hoang khoe công trạng “dưới sự lãnh đạo tài tình của đảng…” “dưới lá cờ (đỏ sao vàng) bách chiến bách thắng…”; và sẽ có không ít những người u mê sẵn sàng vinh danh cái chiến công này như lời của Cù Huy Hà Vũ từng ca tụng chiến thắng 30-4: “…Quả thực, theo quan điểm của tôi, nếu không có chiến thắng Điện Biên Phủ thì sẽ không có miền Bắc hoàn toàn giải phóng để làm hậu phương lớn – nhân tố quyết định để đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ, tiến tới giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc…” Chứng đó, việc đấu tranh để triệt hạ chế độ CS càng khó khăn gấp bội. Và quốc tế cũng sẽ khó tìm ra lý do để yểm trợ các phong trào dân chủ Việt Nam.
    Do đó, nếu phải lựa chọn một trong hai điều xấu trên, chúng tôi sẽ chọn điều không phải ít xấu hơn, mà là điều xấu mà chúng ta có nhiều cơ hội để thoát khỏi nó dễ hơn. Thà để Trung Cộng thắng, diệt bớt bọn CSVN hung ác, rồi sẽ mưu đồ kháng chiến để giải thoát quê hương khỏi nạn đô hộ.
    Chúng ta không sợ mắc tội ủng hộ ngoại xâm, vì chính bọn CSVN đã là tội đồ của dân tộc khi dâng đất, dâng biển và chịu thần phục trước bọn Tàu từ gần thế kỷ qua. Người Việt Quốc Gia đã từng chiến đấu hy sinh trên biển Đông năm 1974, đã từ bao năm nay vẫn tiếp tục lên án, phản đối Tàu Cộng khi có những sự kiện xảy ra từ vụ mất đất biên giới Việt Hoa, vụ Bauxit Tây Nguyên cho đến các vụ uy hiếp của Tàu trên biển đông.
    Vậy, câu trả lời dứt khoát là: Không giúp Tàu Cộng, không giúp Việt Cộng. Phải triệt hạ chế độ CSVN trước để cùng huy động toàn lực vừa bảo vệ giang sơn, vừa vãn hồi tự do dân chủ cho đồng bào.

    Tháng 6, 2014
    Đỗ Văn Phúc

    http://www.michaelpdo.com/AnhChonAi.htm

  3. TQ đưa sách giáo khoa VN ra làm chứng về chủ quyền Biển Đông

     

    Bản đồ quần đảo Trường Sa
    Bản đồ quần đảo Trường Sa
    Trung Quốc sử dụng những bản in từ một sách địa lý cho học sinh lớp 9 của Việt Nam xuất bản cách nay 40 năm để vận động sự ủng hộ của quốc tế trong đòi hỏi chủ quyền của nước này đối với quần đảo Hoàng Sa.

    Theo tin của đài truyền hình CNN, những trang sách giáo khoa này nằm trong số các tài liệu mà Bắc Kinh đã nộp cho Tổng thư ký Liên hiệp quốc Ban Ki-moon, kèm theo lời yêu cầu phân phát các tài liệu này cho tất cả 193 thành viên của Đại hội đồng Liên hiệp quốc.

    Bản tin cho biết những trang sách địa lý đó nằm trong một tập hồ sơ bao gồm một bản đồ khu vực, công hàm năm 1958 của Việt Nam, và trang bìa của một bản đồ thế giới in vào năm 1972.

    Xinhua, cơ quan ngôn luận chính thức của Trung Quốc, trích lời ông Vương Dân, Phó Đại sứ của Trung Quốc tại Liên Hiệp Quốc, nói rằng “Trung Quốc nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để trình bày sự thật với cộng đồng quốc tế, và sửa sai cách hiểu biết của quốc tế về vấn đề này.”

    CNN tường thuật rằng đây là cố gắng mới nhất của Trung Quốc nhằm chứng minh chủ quyền của nước này trong một khu vực mà Việt Nam cũng tuyên bố thuộc chủ quyền của mình, giữa lúc cả hai nước tố cáo tàu bè của nước kia đâm va vào tàu của mình ngoài Biển Đông.

    Trả lời ban Việt ngữ Đài VOA, một nhà sử học đã bảo vệ luận án Tiến sĩ xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường Sa, Tiến sĩ Nguyễn Nhã, xác nhận là sách giáo khoa liên hệ dành cho học sinh lớp 9 của Việt Nam có công nhận rằng quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc gọi là Tây Sa, là thuộc chủ quyền của Trung Quốc, nhưng theo ông, sách giáo khoa đó không có giá trị trước pháp lý quốc tế.

    Sau đây là cuộc trao đổi ngắn giữa Tiến sĩ Nguyễn Nhã trao với Ban Việt ngữ VOA:

    “Trong sách giáo khoa đó thì cái bản đồ có ghi là Tây Sa là của Trung Quốc.”

    VOA: Sách đó có nói Tây Sa là của Trung Quốc?

    Tiến sĩ Nguyễn NhãVâng, Tây Sa là của Trung Quốc, dạ vâng.

    VOA: Thưa sách giáo khoa đó là dành cho học sinh lớp 9 của Việt Nam phải không ạ, mà lại khẳng định Tây Sa là của Trung Quốc?

    Tiến sĩ Nguyễn Nhã: Tôi đã nói là cái tâm lý của hai miền Nam Bắc đối đầu với nhau, thì sẵn sàng ủng hộ đồng chí đồng minh của mình thôi, nhưng mà nó không có giá trị trước luật pháp quốc tế vì vấn đề không có thẩm quyền để mà từ bỏ chủ quyền. Hiệp định Genève quy định rất rõ là chính quyền phía Nam mới quản lý (Hoàng Sa).”

    CNN trích lời ông Sam Bateman, một nhà nghiên cứu thuộc Chương trình An ninh Hàng Hải của Trường Quan Hệ Quốc tế S. Rajaratnam thuộc Đại Học Công Nghệ Nanyang ở Singapore, nói rằng Bắc Kinh đang tìm cách bắt kịp Việt Nam, sau một chiến dịch khá hiệu quả của Hà Nội nhằm vận động sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế đối với lập trường của Hà Nội về cuộc tranh chấp biển đảo với Trung Quốc.

    Tuy nhiên, ông Sam Bateman nói rằng mặc dù Việt Nam đi trước Trung Quốc trong cuộc quốc tế vận này, đa số các nhà quan sát quốc tế độc lập cho rằng những lập luận của Trung Quốc đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa vững chắc hơn các lập luận của Việt Nam.

    Trong một lập luận chắc chắn sẽ gây nhiều tranh cãi, nhà nghiên cứu này nói bước hành động tốt nhất đối với Việt Nam, là nhường chủ quyền cho Trung Quốc, và thương thuyết để có được những sự nhượng bộ của Trung Quốc, kể cả việc tiếp cận các vùng biển để đánh cá, và một thỏa thuận để khai thác chung các tài nguyên dầu khí.

    Nhà sử học Nguyễn Nhã phản bác lập luận của Giaó sư Bateman:

    “Ông đó chắc là người thân Trung Quốc đó! Theo tôi một cách khách quan thì cái gì của Cesar phải trả lại cho Cesar thôi. Còn tất cả những gì mà Trung Quốc nói, nhất là sau 1974, thì hoàn toàn mang tính cách suy diễn mà thôi, không có sự thực lịch sử. Tôi là một người nghiên cứu lịch sử, theo luật pháp quốc tế cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, phải là một sự chiếm hữu thực sự mang tính nhà nước, liên tục và hòa bình. Theo tôi thì suốt từ Chúa Nguyễn, nhà Nguyễn cho tới thời kỳ Pháp thuộc, cho đến thời kỳ thống nhất, chưa có một chính quyền nào có trách nhiệm quản lý Hoàng Sa Trường Sa nào từ bỏ chủ quyền cả.”

    Việt Nam cũng đã nộp hồ sơ cho Liên Hiệp Quốc để tố cáo Trung Quốc là vi phạm “nghiêm trọng quyền chủ quyền của Việt Nam”, và tiếp tục tố cáo “nhiều tàu Trung Quốc đã đâm chìm một tàu cá của Việt Nam.”

    Các nhà phân tích cho rằng những tố cáo qua lại giữa hai nước đã làm vẫn đục lối tiếp cận lẽ ra nên có là hợp tác khu vực như đã vạch ra trong Công ước Liên hiệp quốc về Luật Biển năm 1982.

  4. NHÌN VÀ NGHĨ NHỮNG THÂM ĐỘC BÍ MẬT CỘNG SẢN VIETNAM.

    Lê Đức Thọ tuyên bố : “Mài hận thù để làm bén nhọn đấu tranh”.

    Em của hắn, Mai Chí Thọ, vào năm 1981, lúc này là thế giới cộng sản đã bắt đầu xuống dốc, thì trân tráo, vô liêm sỉ tuyên bố trước một số trí thức miền Nam (học tập cải tạo) là :

    Hồ Chí Minh có thể là một kẻ độc ác, Nixon có thể là một người vĩ đại, người Mỹ có thể đã có chính nghĩa. Nhưng chúng tôi đã thắng và người Mỹ đã bị đánh bại, bởi vì chúng tôi đã thuyết phục được người dân rằng Hồ Chí Minh là một người vĩ đại và Nixon là một kẻ giết người, người Mỹ là những kẻ xâm lược. Yếu tố then chốt đó là kiểm soát được người dân và quan điểm của họ. (Chỉ có chủ nghĩa Marx – Lénine là làm được điều đó). Không ai trong các anh (chỉ những người trí thức miền Nam bị đi học tập cải tạo) thấy sự kháng cự đối với chế độ của những người cộng sản, vì vậy đừng suy nghĩ về chuyện đó. Quên chuyện đó đi. (Mai Xhí Thọ – theo lời của Đoàn Văn Toại, trong A Lament for Việt Nam – New York Times Magazine – 29/03/1981).

    (st)

    Bài Đọc Quan Tâm

    30.4.1975 – Ngày Tự Thú của csVN
    30.4.1975 – Ngày Hận Thù của csVN
    VNCH – Sau 30 năm tị nạn csVN
    Danh Ngôn Chủ Nghĩa Cộng Sản
    30 câu nói về Cộng Sản
    Chiến tranh nam bắc Mỹ
    Ngô Đình – Hiểm Họa Xâm Lăng
    Ngày Quốc Hận – 30.4.1975
    Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng
    Hồ Chí Minh – Tên Diệt Chủng thế kỷ 20
    TT Thiệu – Hòa bình của nấm mồ
    Quốc Ca – Cờ Vàng – Cờ Đỏ
    Quốc Hận – 30.4.75 Tại Sao ?
    Hòa Giải – Hòa Hợp – Dân Tộc
    Thanh Trừng – Nội Bộ Đảng csVN

  5. Hiến Pháp 26.10.1956 và thực tại chính trị dân chủ miền Nam

    Trước đây, hơn 50 năm, vào đầu năm 1954, Việt Nam đã thực sự đứng trên bờ vực thẳm của một sự phá sản toàn diện. Thật vậy, tin Điện Biên Phủ thất thủ không những gây nên một không khí bi quan tột cùng tại Việt Nam, mà còn kéo theo một cơn lốc chính trị khiếp hải tại nghị trường Ba Lê, khiến chính phủ Laniel bị sụp đổ. Mandes France được quốc hội tín nhiệm lên làm thủ tướng với lời hứa hẹn sẽ giải quyết cuộc chiến tranh Đông Dương trong vòng 30 ngày, nghĩa là phải chấm dứt chiến tranh bằng mọi giá. Còn Hoa Kỳ, dù trước đó, được Pháp khẩn khoản yêu cầu can thiệp, Tổng Thống Eisenhower do dự, không dám quyết định, sợ mất uy tín vì viễn tượng vô cùng mờ mịt cả về quân sự lẫn chính trị tại Việt Nam.

    Trước tình thế hầu như tuyệt vọng đó, Ông Diệm đã chấp nhận mọi thử thách để về nước chấp chánh. Không một quan sát viên quốc tế nào vào thời đó, dù lạc quan nhất đi nữa, dám tin rằng chính phủ Diệm có thể tồn tại hơn 6 tháng. Nhưng như một phép mầu, Ông Diệm đã vượt qua mọi khó khăn nghiệt ngã, cùng những âm mưu thâm độc đang vây hãm, muốn nhận chìm chính phủ của Ông từ trong trứng nước.

    Thật vậy, nhờ một ý chí quật cường, một năng lực vô song, tài lãnh đạo sáng suốt, cùng một cuộc sống đạo đức cá nhân trong sáng, thánh thiện và một thành tích chống Pháp và chống Cộng không tì  vết … đã giúp Ông Diệm thống hợp được ý chí dũng mãnh phi thường của toàn dân trong công cuộc đấu tranh giải phóng đất nước dành độc lập và tự do cho tổ quốc. Chỉ trong một thời gian ngắn, Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã thực hiện được nhưng thành tưu đáng kể như sau:

    Biến một quân đội lệ thuộc ngoại bang và tình trạng nhiều quận đội trong một quân đội, thành một quân đội quốc gia độc lập và thống nhất, có tổ chức qui củ, có kỷ luật, có tinh thần chiến đấu bảo vệ tổ quốc.

    Biến tình trạng nhiều quốc gia trong một quốc gia, do nạn giáo phái hung cứ mỗi nhóm một phương thành một quốc gia thống nhất, với một cơ chế chính quyền trung ương vững mạnh, đủ uy lực để huy động mọi tiềm năng quốc gia vào công cuộc phát triển kinh tế, canh tân xã hội và kiến tạo một đất nước dân chủ tiến bộ trong ổn định và thanh bình.

    Thay đổi một cơ chế chính trị mơ hồ bằng một định chế chính trị dân chủ tiến bộ, với một bản hiến pháp, phù hợp với trào lưu chính trị thế giới, vừa đảm bảo được những quyền tự do cơ bản của mọi công dân, nhưng cũng vừa đủ mạnh để duy trì uy quyền quốc gia, nhằm đối phó với cuộc chiến tranh du kích, phá hoại và khuynh đảo do Cộng sản Bắc Việt chủ xướng. Đồng thời, tạo cơ hội để huy động mọi năng lực để tái thiết đất nước và xây dựng kinh tế thoát khỏi tình trạng nghèo đói và lạc hậu của một quốc gia bị đô hộ mới thu hồi độc lập.

    Nhưng trong tất cả thành quả kể trên, Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã coi trọng và rất tự hào về việc ban hành Hiến Pháp 26.10.1956, vì theo Tổng Thống, các quốc gia láng giềng Á Châu, đã mất ít nhất một vài ba năm mới có thể kiện toàn cơ chế căn bản của nền dân chủ của họ, còn chế độ Việt Nam Cộng Hòa chỉ cần một năm đã ban hành được một bản Hiến Pháp dân chủ và tiến bộ, đồng thời đáp ứng được nhu cầu cấp thiết của đất nước về mọi phương diện.

    Hình Thành Hiến Pháp 26.10.1956

    Nếu cuộc Trưng Cầu Dân Ý ngày 23.10.1955 là hệ quả của cuộc cách mạng tự phát do Ủy Ban Cách Mạng Quốc Gai gồm 18 chính đảng và đoàn thể cùng 29 nhân sĩ có uy tin của miền Nam lúc  đó thực hiện (xem Nhị Lang, trang 287-297) thì việc hình thành Bản Hiến Pháp đầu tiên của thể chế Cộng Hòa Việt Nam lại là thành quả một cuộc tranh đấu lâu dài của chính vị nguyên thủ quốc gia thời đó. Điều nầy được chính Ông Diệm xác nhận:

    “Cách đây 22 năm, khi tôi có trách nhiệm quan trọng trong chính quyền, tôi đã đòi hỏi thành lập một Quốc Gia Dân Cử. Nhưng người và hoàn cảnh hồi đó chống lại ý muốn ấy, nên tôi rời bỏ chính quyền.  Ấy vậy, khai nguyên một chế độ dân chủ, chẳng phải vì tình thế, mà cũng là việc tôi hằng chủ trương tranh đấu”. (Niên Giám Quốc Hội Lập Hiến, Sàigon, 1956, tr17).

    Tiếp đến Tổng Thống Ngô Đình Diệm đã quan tâm rất nhiều đến tie^’n trình dự thảo Hiến Pháp 26.10.1956. Trong thực tế, bản văn pha’p lý căn bản nầy không chỉ là sáng quyền duy nhất của Quốc Hội Lập Hiến thời đó, mà còn có sự tham gia chỉ đạo rất tích cực của Tổng Thống Diệm nữa. Điều nầy đã thể hiện trong thông điệp của Tổng Thống gởi quốc Hội Lập Hiến trong ngày khai mạc 17.4.1956:

    Việt Nam là một nước Cộng Hòa độc lập, thống nhất và bất khả phân.

    Mỗi người công dân được sinh ra, đều được tự do và bình đẳng trước pháp luật. quốc gia phải bảo đảm cho họ những điều kiện đồng đều để họ hành xử quyền lợi của mình và hoàn thành các nhiệm vụ đã được giao phó. Chính phủ có bổn phận giúp đở và bảo vệ gia đình họ, để họ có thể phát phát triển một cuộc sống gia đình thuận hòa. Tất cả các công dân đều có quyền được hưởng một cuộc sống an bình, với mục tiêu duy nhứt là được làm việc với đồng lương xứng đáng để có thể tạo nên một sản nghiệp và nhờ đó có thể đảm bảo cho mình một cuộc sống đầy nhân phẩm và tự do, bảo đảm cho mình những quyền tự do dân chủ, và tạo cho mình cơ hội được phát triển đầy đủ bản chất riêng mình. Vì phúc lợi chung và vì ne^`n Cộng Hòa, chống lại những kẻ phá hoại nền tảng của cuộc sống cộng đồng và của Hiến Pháp.

    Chủ quyền quốc gia thuộc vê Quốc Dân.

    Quốc Hội Dân Cử được giao phó nhiệm vụ lập pháp.

    Tổng Thống của nên Cộng Hòa được bầu ra bằng một cuộc phổ thông đầu phiếu, trực tiếp và kín, sẽ được ủy thác trách nhiệm hành pháp.

    Tòa án phải được hoàn toàn ddộc lập để có thể đóng góp thiết thực vào việc bảo vệ được chế độ cộng hòa, trật tự, tự do và nền dân chủ.

    Một Viện Bảo Hiến cũng phải được thành lập để có thể giải quyết những tranh chấp có lien quan đến các luật lệ hiến định.

    Các lựu lượng kinh tế phải lien kết với nhau để hành xử quyền hành của họ bằng cách thiết lập nên một Hội Đồng Kinh Tế Quốc Gia (Ibid).

    Thực tại chính trị Việt Nam

    Như mọi người đều biết, Hiến Pháp tự nó chỉ là một văn kiện pháp lý, không thể mang lại tự do dân chủ cho người dân, nếu chính quyền không thực tâm thi hành những điều khoản đã được long trọng công bố trong đó. Điều nầy thể hiện rõ nét trong thực tại chính trị tại các quốc gia cộng sản. Thực vậy, các quốc gia cộng sản cũng có những bản hiến pháp rất tiến bộ, qui định rất rõ rệt những quyền tự do căn bản của mọi công dân. Nhưng trong thực tế, đó là những chế độ độc tài toàn trị, chính quyền đã thâu tóm mọi quyền hành và những điều khoản căn bản mà Hiến Pháp đã dành cho người dân đều bị chính quyền chà đạp một cách thô bạo.

    Từ ý nghĩ đó, người viết muốn tìm hiểu một cách khách quan vô tư về thực tại chính trị Việt Nam trong việc thực thi văn kiện văn kiện pháp lý căn bản của chế độ. Đồng thời, cũng xin minh xác ở đây, trong bài nầy sẽ không đề cập đến nội dung của Hiến Pháp 26.10.1956, vì luật sư Hà Như Chi, dân biểu của Quốc Hội Lập Hiến và cũng là thành viên trong Ủy Ban soạn thảo Hiến Pháp, đã trình bày khá đầy đủ trong quyển Kỷ Yếu Ghi Ơn Tổng Thống Ngô Đình Diệm, xuất bản tại California, 2005, dưới nhan đề Quốc Hội Lập Hiến và Hiến Pháp Đệ Nhất Cộng Hòa, tr 31-44.

    Tổng Thống Ngô Đình Diệm độc tài?

    Phần lớn những chính trị gia đối lập với chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa Việt Nam, mà người viết được tiếp xúc, đều cho là Tổng Thống Ngộ Đình Diệm là một người độc tài, không chấp nhận đối lập, không biết liên kết với đảng phái quốc gia để tạo thành những liên minh chính trị có qui mộ lớn để động viên sự ủng hộ của toàn dân, nhằm chống cộng sản hữu hiệu, như Bs Nguyễn tôn Hoan, một lãnh tụ Đảng Đại Việt, hệ phái Miến nam đã phê bình Ông Diệm:

    Ông Diệm lúc đầu là một nhà cách mạng thật sự và đạo đức, tôi đã cộng tác với Ông trong những thời gian đầu của thập nên 1950. Nhưng đến khi Ông Diệm về nước cầm quyền 1954, Ông càng ngày càng tỏ ra độc tài không còn muốn nghe lời ai nữa, Ông không muốn chia xẽ quyền hành với các đảng phái quốc gia khác. Tôi không đồng ý với quan niệm đó và đã rời Việt Nam để sống lưu vong. (Bs Nguyễn Tôn Hoàn trả lời phỏng vấn của tác giả, tại San Jose, tháng 7, 1986).

    Trước đó nhiều năm, khi còn giảng sư Lịch sử Chính Trị Việt Nam Hiện Đại, tại Viện Đại Học Đalat, tôi có nhiều dịp tiếp xúc với ông Võ Văn Hải, bí thư của Tổng Thống Ngô Đình Diệm, và từ năm 1967-1975, ông cũng là giáo sư thỉnh giảng tại cơ sở giáo dục nầy. Khi tôi hỏi về thái độ của Tổng Thống Ngộ đình Diệm đối với các chính khách đối lập, ông Hải tiết lộ:

    Tổng Thống Ngô Đình Diệm cho rằng phần lớn các chính khách Việt Nam không có một kiến thức chính trị thực tiển và không hiểu thực tại chính trị, kinh tế và xã hội của quốc gia chậm tiến mới thu hồi độc lập như Việt Nam, Việt Nam lúc ấy phải đối đầu với hậu quả của cuộc chiến tranh khốc liệt suốt 9 năm, trong đó mọi hạ tầng cơ sở bị tiêu hủy hoàn toàn, cầu cống, đường sá, hệ thống viễn thông … toàn bộ bị phá sập, cắt đứt. hệ thống ngân hàng sụp đỗ toàn diện vì không ai tin tưởng nữa. Từ đó kinh tế quốc gia đi vào ngỏ cụt đầy tăm tối … Chính trị thì vô cùng hỗn loạn, các giáo phái hùng cứ mỗi người một phương. Ngay tại đô thành Sàigon, lực lượng công an cảnh sát do Bình Xuyên nắm giữ, nhiệm vụ chính của họ không phải bảo vệ an ninh trậ tự cho dân chúng, mà để duy trì và củng cố mức thu nhập tài chánh cho các sòng bạc (Casino), các ổ điếm và các trung tâm hút thuốc phiện của Bảy Viễn. Quân đội do các sĩ quan Pháp nắm giữ, lúc nào cũng sẳn sàng thách thức quyền lực chính phủ, để bảo vệ quyền lợi của thực dân và tài phiệt Pháp. Thêm vào đó, đất nước bị chia đôi, chính quyền phải định cư cho gần 1 triệu đồng bào di cư từ miền Bắc vào Nam. Mặc dù, theo hiệp định Genève, cuộc chiến đã kết thúc và cộng sản tập kết ra Bắc, nhưng thực tế họ đã gài người ở lại để chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh du kích, phá hoại và khuynh đảo mới. Thực dân Pháp, dù tuyên bố trao trả chủ quyền cho Việt Nam, nhưng trong thực tế vẫn còn có nhiều ý đồ đen tối để duy trì đặc quyền, đặc lợi của giới tài phiệt Pháp tại đây … đất nước vừa mới thu hồi độc lập, dân chúng còn bỡ ngỡ trước quan niệm tự do dân chủ, dân chúng còn ngheo đói, không đủ ăn đủ mặc. Nếu đem áp dụng những quan niệm dân chủ lý tưởng của Tây Phương chắc chắn sẽ đưa đến hỗn loạn.

    Trong hoàn cảnh đó, mà Bs Nguyễn Tôn Hoàn và Ks Phan Khắc Sửu .. đòi phải áp dụng chế độ Dân Chủ Đại Nghị của Đệ Tam Cộng Hòa Pháp Quốc, để đem hứng khởi lại cho người dân và cổ vũ cho mọi chính đảng tham gia vào mặt trận chính trị quốc gia nhằm đối đầu với cộng sản và thực dân …

    Theo Ông Diệm, các cụ không theo dõi những biến chuyển chính trị trên thế giới, đặc biệt các quốc gia Á Phi, sau khi thu hồi độc lập, họ cần phải có một chính quyền mạnh để có thể thực hiện các cuộc canh tân khẩn cấp về chính trị và kinh tế, để có thể bắt kịp đà tiến hóa của thế giới sau nhiều năm bị kèm hảm trong sự chậm tiến dưới chế độ thực dân đô hộ.  Và ngay quan niệm Dân Chủ Đại Nghị của Đệ Tam Cộng hòa Pháp Quốc, đã lỗi thời ngay cả ở nước Pháp, một quốc gia có truyền thống dân chủ lâu đời nhất thế giới nầy, vì nó gây nên quá nhiều bất ổn chính trị, có khi  trong một tháng mà phải thay đổi chính phủ đến 2 lần, có khi chính phủ tồn tại có 3 ngày là sụp đỗ … thử hỏi, một người có chút công tâm, một chút nhận thức về thực tế chính trị đất nước và chiều hướng phát triển kinh tế chính trị tại các quốc gia Á Phi, sau thế chiến thứ 2 … có thể chấp nhận quan điểm dân chủ của cụ Hoàn, cụ Sửu … không?

    Ông Diệm khẳng định, vì quyền lợi tối thượng của quốc dân và tổ quốc, Ông không thể chấp nhận quan điểm nầy.

    Nhưng bất hạnh cho cá nhân Tổng Thống Ngô Đình Diệm và có thể cho toàn thể miền Nam không ngừng ở đó. Ngày 27.1.1960, Cộng sản lợi dụng dịp Tết Nguyên Đán, bất ngờ tấn công vào Trảng Sụp, thuộc tỉnh Tây Ninh, gần biên giới Việt Miên, với quân số cấp trung đoàn. Điều nầy chứng tỏ mức độ xâm nhập, phá hoại và khuynh đảo của cộng sản Bắc Việt đã đến độ nguy hiểm cho sự tồn vong của Việt Nam Cộng Hòa.

    Trong chính tình hình đó, thật là khó hiểu và đầy mĩa mai, tháng 4 năm 1960, 18 chính kách tên tuổi của miền Nam họp tại khách sạn Caravelle, đưa ra một kiến nghị đòi Tổng Thống Diệm mở rộng chính phủ, thực thi những quyền tự do căn bản trong Hiến Pháp như quyền tự do báo chí, tự do hội họp … thật là đầy bí ẩn, khi đát nước đang ở trong tình trạng khẩn trương của chiến tranh, các cụ lại đi đòi hỏi thực thi những điều tự do quá lý tưởng và không thực tế nầy. Đến nỗi, một nhà bình luận người Anh có nhiều kinh nghiệm về Việt Nam, Ducanson đã nhận xét mà người viết có thể tóm lược như sau:

    “Nếu bản kiến nghị nầy được đưa ra trong điều kiện chính trị ổn định của một miền Nam không bị cộng sản Hà Nội đe dọa tiêu diệt, thì đó là yêu sách đáng được cứu xét nghiêm chỉnh. Điều đáng tiếc nhất, là khi cộng quân đã tấn công cấp trung đoàn và các vụ sát hại các viên chức chính phủ hầu như xảy ra hằng ngày, thì đó là những yêu sách nếu không muốn bảo là ngớ ngẩn, thì ít ra cũng bắt nguồn từ sự thiếu khôn ngoan.” (Ducanson, Denis J. Government and Revolution in Vietnam, 1968).

    Dù vậy, nhưng biến cố nầy sau khi được nhà báo thiên tả như Jean Lacouture viết những bài tường thuật trên báo Le Monde tại Paris đã kết án chính quyền của Tổng Thống Ngô Đình Diệm là độc tài, không thực thi nghiêm chỉnh Hiến Pháp và không được sự ủng hộ của đa số chính khách đối lập trong việc theo đuổi chính sách chỉ đạo cuộc chiến tranh chống Cộng tại Việt Nam. Điều nầy đã làm xấu đi hình ảnh của Tổng Thống Ngô Đình Diệm tại chính trường Hoa Thịnh Đốn.

    Tiếp đến, một biến cố quân sự khác, đó là cuộc đảo chánh 11-11-1960 do Trung Tá Vương Văn Đông chủ xướng. Ông Đông là một sĩ quan thân Pháp, bất mãn với chính quyền Ông Diệm, kết hợp với một số sĩ quan gốc Bắc cũng bất mãn như ông, vì cho rằng Tổng Thống Ngô Đình Diệm kỳ thị địa phương, chỉ thích sử dụng người miền Trung (Đại Tá Phạm Văn Liễu đàm luận với tác giả tại California, 7-1986). Do đó, các sĩ quan nầy chủ động một cuộc đảo chánh quân sự một cách vội vã và thiếu tổ chức, chứ không có một hậu thuẩn chính trị nào đáng kể. Về phương diện chính trị, ông Đông có liên lạc với luật sư Hoàng Cơ Thụy, một người có họ hàng với ông, như là người phụ trách bộ phận chính trị của cuộc đảo chánh, nhưng ông Thụy không có liên lạc hay nối kết hoặc được sự ủng hộ của một chính đảng nào. (xem Vương Văn Đông, Binh Biến 11-11-1960, Phụ Nữ Diễn Đàn, Virginia, số 106 tháng 11/1992, tr 41-42). Chỉ khi Đại Tá Nguyễn Chánh Thi, người tham gia đảo chánh vào giờ chót, cho mời nhà văn Nguyễn Tường Tam, kỷ sư Phan Khắc Sửu, vì không nắm vững tình thế lúc đó, nên các cụ ủng hộ cuộc đảo chánh vào giờ chót, và sau này, các cụ đã gặp khá nhiều hệ lụy phiền phức với chính quyền.  Trong khi luật sư Thụy, vì được CIA móc nối và khuyến khích thực hiện cuộc binh biến nầy từ trước, nên sau khi sự việc bất thành, CIA đã đưa vị luật sư nầy rời khỏi Việt Nam một cách an toàn.

    Rồi ngày 20.12.1960, Cộng sản Bắc Việt chính thức khai sinh Mặt Trân Giải Phóng Miền Nam để phát động cuộc xâm lăng võ lực thôn tính Miền Nam.

    Ba sự kiện trên đây, đối với người viết, xảy ra hoàn toàn riêng rẽ, không có một liên hệ hỗ tương, nhân quả hay luận lý nào với nhau. Nhưng đối với dư luận, nhất là tại Hoa Kỳ, họ cho rằng ba biến cố nầy đã có một liên hệ nhân quả mật thiết, nghĩa là chính quyền Diệm độc tài, đàn áp đối lập, hạn chế những quyền tự do căn bản …, xa rời quần chúng, khiến đa số chán ghét chế dộ Diệm nên đã có những thành phần trí thức bất mãn như nhóm Caravelle đòi hỏi cải cách chính trị, nhóm sĩ quan nhảy dù thực hiện đảo chánh quân sự và sau khi những nỗ lực nầy thất bại, những thành phần đối lập nầy, không còn phương cách nào khác hơn, đã phải nối kết lại với nhau dựng nên Mặt Trân Giải Phóng Miền Nam, hoàn toàn độc lập với Hà Nội, xử dụng võ lực để chống lại chính phủ Miền Nam. Điều thiếu may mắn nữa cho Ông Diệm và cũng cho Miền Nam, là quan điểm nầy lại được  một chuyên gia rất có uy tín về Việt nam là G. Kahin, giáo sư của Địa Học nổi tiếng Cornell và cũng là cố vấn của Tổng Thống Kennedy về Việt Nam sau nầy nhiệt tình ủng hộ. (xem Kahin George, Intervention, 1986). Từ những nguyên nhân sau xa đó, uy tín của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong chính giới Hoa Kỳ ngày càng giảm sút nghiêm trọng, đến nổi, cuối năm 1961, những nhà làm chính sách tại tòa Bạch Ốc đã có lúc nghĩ đến việc ám sát Tổng Thống Ngô Đình diệm, nhằm thay đổi cơ chế lãnh đạo của Miền Nam.

    Trong thời gian đó, chỉ có chính quyền Úc có một cái nhìn sâu sắc và thực tiển hơn về vấn đề xây dựng dân chủ và đường lối chính trị cứng rắn của Tổng Thống Ngô Đình Diệm trong chủ trương theo đuổi cuộc chiến tranh chống Cộng, Ngoại Trưởng R. G. Casey của Úc đã nhận xét:

    “Hai sự việc cần được mọi người ghi nhớ khi muốn chỉ trích chính quyền Việt Nam . Thứ nhứt, Việt Nam đang ở tuyến đầu của cuộc chiến tranh lạnh. Chính phủ quốc gia đó, không thể để một khe hở nào cho đối phương khai thác. Một kẻ hở nào cũng sẽ cựuc kỳ nguy hiểm, không những cho Việt nam mà còn cho cả tự do của Đông Nam A` Châu nữa. Thứ hai, sự thực hiện dân chủ trên bình diện quốc gia là một quan niệm hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam và cần phải có thời gian để phát triển các định chế, các truyền thống, các tập tục hầu thực hiện các quyền dân chủ theo đường hướng xây dựng và có trách nhiệm”. (Richard Lindhelm, Vietnam, the First five years Ann Arbor, Michigan, 1959, tr 344).

    Quan Niệm Dân Chủ Việt Nam và Hoa Kỳ

    Sai Lầm của Mỹ

    Điều khá khôi hài, khi quan niệm dân chủ của Tổng Thống Ngô Đình Diệm và của Tổng Thống Kennedy đều bắt đầu bằng hai chữ T. Đó là Dân Chủ Thành và Tín của Ông Diệm trong khi Dân Chủ của Kennedy là dân chủ thực tiển. Thật vậy, Tổng Thống Ngô Đình Diệm luôn luôn chủ trương rằng đời sống dân chủ nói cho cùng … chính là việc đem áp dụng các giá trị thành và tín vào cuộc sống hằng ngày một cách thật hoàn hảo. Trong khi đó, các giới chức của chính quyền Hoa Kỳ chủ trương dân chủ thực tiển, nghĩa là dân chủ phải thực tế, từ ngữ tự do dân chủ, chủ quyền quốc gia và công pháp quốc tế, chỉ một ý nghĩa vô cùng tương đối và tùy tiện, nhắm pphuc5 vụ cho quyền lợi của Hoa Kỳ thời đó đã khẳng định rằng, vì quyền lợi của nước Mỹ, không những họ có quyền mà còn có trách nhiệm để thay đổi cơ chế lãnh đạo Miền Nam lúc bấy giờ. Cũng như ngày nay, Hoa Kỳ chỉ đặt nhân quyền, tự do tôn giáo … với chính quyền Hà Nội, khi người Mỹ còn muốn mặc cả về những điều kiện kinh tế và thương mại cho giới tư bản Mỹ, nhưng khi những yêu sách nầy của Mỹ được Hà Nội thỏa mãn, thì những vấn đề nhân quyền … của Việt Nam chắc chắn sẽ không còn được chính quyền Hoa Kỳ đề cập đến nữa. Đó là những thực tại chính trị khá phủ phàng nhưng rất thực tế của nước Mỹ và cũng là nan đề trong việc thực thi dân chủ tại Miền Nam của Tổng Thống Ngô Đình Diệm mà người viết sẽ trình bày một cách chi tiết trong phần dưới đây.

    Bối Cảnh Lịch Sử Chính Trị, ‘Chia để Trị’

    Tổng Thống Ngộ đình Diệm thường tâm sự với các cộng sự viên thân tín:

    Người Mỹ không có khả năng phân biệt được thế nào là uy quyền quốc gia và chủ quyền dân tộc với lối cai trị độc tài … Vì truyền thống xã hội Việt Nam, bối cảnh chính trị và lịch sử của đất nước, đòi buộc các nhà lãnh đạo Việt Namphai3 chú trọng đến việc nâng cao chủ quyền quốc gia (Ngô Đình Luyện đàm luận với tác giả tại Ba Lê, tháng 9,1986).

    Thật vậy, xuyên qua lịch sử Việt Nam, quốc gia nầy đã bị người Trung Hoa cai trị gần một ngàn năm và hơn 80 năm bị người Pháp đô hộ. Những người thống trị ngoại bang nầy đã áp dụng một chính sách chia để trị nhằm chia rẽ Việt Nam và kiềm hảm quần chúng trong cảnh thất học, nghèo đói và chậm tiến. Cũng theo Tổng Thống Ngô đình Diệm, chính sách nầy đã để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho xã hội Việt Nam trên nhiều bình diện khác nhau:

    Trước hết là tình trạng phân hóa. Điều nầy thể hiện khá rõ rệt trong lịch sử đất nước chúng ta. Sauk hi Ngô Quyền dành độc lập cho tổ quốc và chấm dứt thời kỳ lệ thuộc vào phương Bắc, đất nước chúng ta đã phải trãi qua thời kỳ Thập Nhị sứ quân. Và đến thế kỷ thứ 15, dân tộc nầy phải sống trong cảnh Nam Bắc Phân Tranh gần 100 năm. Dưới thời Pháp đô hộ, chính quyền thức dân đã chia Việt Nam thành 3 miền khác nhau: Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ và được đặt dưới những chế độ chính trị khác nhau:

    Thật vậy, trên nguyên tắc, Bắc Kỳ và Trung Kỳ được đặt dưới chế độ Bảo Hộ (Protectorate), nhưng trong thực tế, cách thức cai trị ở Bắc kỳ và Trung Kỳ cũng khác nhau. Ở Bắc Kỳ, người Pháp đòi buộc Triều Đình Huế ủy quyền cho một viên chức Pháp gọi là Thống Sứ để đại diện Hoàng Đế Việt Nam điều hành công việc hành chánh tại miền đất nầy. Trong khi Trung Kỳ thuộc thẩm quyền của các Vua Triều Nguyễn, cai trị dân chúng dưới sự chỉ đạo của Khâm Sứ Pháp tại Huế. Còn Nam Kỳ được đặt dưới chế độ thuộc đia (colony) hoàn toàn do người Pháp cai trị. Người dân sống từ vùng nầy sang vùng khác; ví dụ như Bắc Kỳ vào Nam Kỳ, phải xin giấy thông hành (passport) giống như người từ quốc gia  sang quốc gia khác vậy. Rồi vào thập niên 1950, người Pháp đặt Cao Nguyên Trung Phần dưới một thể chế cai trị đặc biệt được mênh danh là Hoàng Triều Cương Thổ. Và tiếp theo, người Pháp cũng cắt một số tỉnh miền Dông và miền Tây Nam Kỳ đặt dưới quyền cai trị riêng của hai giáo phái Cao Đài và Hòa Hảo.

    Áp dụng biện pháp cai trị đó, người Pháp nhằm mục đích tạo tình trạng phân hóa giữa người Việt và làm ung thối tiềm năng đấu tranh dành độc lập của dân tộc. Theo ông Ngô Đình Luyện, khi về nước cầm quyền, Ông Diệm đã phải đối dầu với tình trang chia rẽ trầm trọng. Do đó, chính phủ không còn cách nào khác hơn là tập trung quyền hành để thống nhất uy quyền quốc gia, nhằm xây dựng độc lập cho dân tộc, phát triển kinh tế, cải tạo xã hội và ngăn cản âm mưu khuynh đảo của cộng sản.

    Ngoài ra, để dễ dàng duy trì chế độ thực dân, người Pháp đã kiềm chế dân tộc Việt Nam trong cảnh thất học. Họ đã hạn chế việc xuất bản sách báo và kiểm soát gắt gao việc mở trường dạy học. Trong thực tế, chính quyền thực dân chỉ mở một số ít các trường học nhằm đào tạo một số công chức cấp thấp để phục vụ cho guống máy cai trị của họ tại Đông dương. Chủ ý của họ là tạo nên một giới thư ali5 thụ động, thiếu trách nhiệm, chỉ biết vâng lệnh và không biết tự tìm cách giải quyết các vấn đề. Do đó, khi thu hồi độc lập, chính quyền trung ương đã phải giải quyết tất cả mọi vấn đề trên toàn quốc. Theo ông Ngộ Đình Luyện, trong nội các của Ông Diệm năm 1955, chỉ có 2 đến 3 tổng trưởng là dám nhận lãnh trách nhiệm để điều hành các công việc thuộc phạm vi quyền hạn của họ. Còn những người còn lại, vì sợ trách nhiệm hoặc không đủ hiểu biết chuyên môn để giải quyết các vấn đề khó khăn; do đó, đã tìm mọi cách để tránh né và chuyển gánh nặng hành chánh của họ lên vai Tổng Thống Diệm. Chính vì tình trạng nầy, vào những năm sau cùng của chế độ Đệ Nhất Cộng Hòa, Tổng Thống Diệm đã phải gởi hang núi hồ sơ cho ông Ngô đình Nhu, người cố vấn thân tín nhất của Tổng Thống để giải quyết. Đó là lý do giải thích tại sao hằng ngày Tổng Thống Diệm đã phải làm việc hết sức cực nhọc từ 5 giờ sáng đến nửa khuya và đôi khi đến 1 hy 2 giờ sáng ngày hôm sau.

    Như điều tai hại cho Tổng Thống Diệm, là những người cộng sự viên thiếu tinh thần trách nhiệm nầy, thường bí mật phàn nàn với cố vấn Mỹ, là Tổng Thống Diệm không biết ủy quyền cho các thuộc cấp, muốn tập trung tất cả quyền hành vào trong tay mình, cho nên đã tạo nên nhiều sai lầm nghiêm trọng. (Theo Ngô Đình Luyện, đàm luận với tác giả). Chính vì vậy, mà Hilsman, Thứ Trưởng Ngoại Giao, Đặc Trách Viễn Đông Sự Vụ, khi quan sát tình hình Việt Nam vào đầu năm 1963, đã kết luận:

    Dù có biện hộ hay né` tránh thế nào đi nữa, vấn đề cuối cùng vẫn là nơi Ông Diệm. (Xem Hilsman, To Move A Nation, tr 460).

    Phương Cách Thực Thi Dân Chủ

    Đối với Tổng Thống Diệm, dân chủ kiểu Mỹ là một sản phẩm xa xỉ hoàn toàn không thích hợp với một quốc gia chậm tiến như Việt Nam . Cũng theo Ông, xã hội Việt Nam, đa số dân chúng hơn 80% sống ở thôn quê, còn đói nghèo, thất học, không có an ninh, luôn bị du kích Cộng sản đe dọa; thì những tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do hội họp, tự do bầu cử chẳng có ý nghĩa gì cả đối với họ. Điều mà dân chúng ở nông thôn mong muốn là một chính quyền mạnh mẽ, đủ để bảo đảm an ninh cho họ chống lại sự khủng bố của Việt Cộng. Hằng đếm, du kích Cộng sản dùng sung hăm dọa để thu thóc gạo, cưởng bách con em họ phải tham gia hang ngũ cán binh Việt Cộng. Ngoài ra, dân quê cần chính quyền tạo cho họ một đời sống đủ ăn, đủ mặc chống lại sự bóc lột của chủ đất, và của một thiểu số có thế lực và giàu có. Rồi từ đó, họ có đủ phương tiện gởi con em họ đến trường học, hấp thụ được một nền giáo dục căn bản, đủ kiến thức chính trị cần thiết. Lúc đó, người dân quê sẽ biết xử dụng quyền tự do căn bản của họ, để thực sự tham gia các cuộc bầu cử và ứng cử nhằm ngăn chận những người địa chủ và một thiểu số giàu có, lợi dụng sự nghèo đói và thất học của họ đã khai thác và bóc lột họ.

    Lý thuyết của Tổng Thống Diệm đã được áp dụng vào thực tế qua những chương trình sau đây:

    Chương trình cải cách ruộng đất, được mệnh danh là chương Trình Người Cày Có Ruộng trong đó chính phủ mua đất của các địa chủ phát cho người nghèo.

    Chương Trình Dinh Điề, chính phủ đã thực hiện một công cuộc di dân từ các làng xã dân cư đông đúc và nghèo khổ; ở đó dân không đủ đất để cày hoặc đất đai quá cằn cổi, đến những vùng đất đai trù phú hơn ở Cao Nguyên để khẩn hoang lập nghiệp. Trong thời gian đầu, chính phủ giúp cho dân chúng đầy đủ các vật dụng để xây cất nhà cửa, các nông cụ canh tác. Đồng thời, chính phủ cũng cung cấp đầy đủ lương thực và quần áo để sống trong vòng 6 tháng đầu tiên để chờ đợi mùa màng sinh hoa lợi.

    Chương trình Khu Trù Mật, chính phủ đã chọn một số địa điểm ở thôn quê, để xây dựng các cơ sở với những tiện nghi của thành phố như lập nhà máy điện, đào gieng61 nước được trang bị máy bom tối tân, xây bệnh viện, trường học .. để dân chúng nông thôn hưởng thụ những tiện ích của đời sống văn minh.

    Chương trình Ấp Chiến Lược. Đây là chương trình rất quan trọng nằm trong sách lược của quốc gia nhằm chống lại cuộc chiến tranh khuynh đảo do chính quyền Hà Nội chủ xướng.

    Qua chương trình nầy, chính quyền địa phương đã thực hiện một cuộc thanh lọc để loại trừ những thành phần cộng sản nằm vùng ra khỏi dân chúng. Sau đó, chính quyen62 đoàn ngũ hóa dân chúng thành những tổ chức chiến đấu để chống lại sự khủng bố của cộng sản. (…)

    Về phương diện kinh tế, mỗi ấp đã trở thành một đơn vị phát triển kinh tế tự túc. Thật vậy, lúc đầu với một máy sản xuất gạch ngói có tính cách tiểu công nghệ do chính phủ giúp đở, với lối làm việc vầnn công và đổi công, chẳng bao lâu trong ấp, tất cả các nhà tranh được thay thế bằng các nhà gạch với mái ngói khang trang với vườn cây ăn trái tốt tươi và xinh đẹp.

    Về phương diện chính trị, mỗi ấp tự bầu lên một ban trị sự để điều hành mọi công việc trong ấp. đây là phương cách hữu hiệu và thực tiễn để người dân quê có thể tiếp tục xử dụng những quyền tự do dân chủ căn bản để bầu người đại diện của mình vào cơ cấu hành chánh xã ấp.

    Theo Tổng Thống Diệm, đây là cách thực hiện dân chủ hiệu quả nhất của một quốc gia chậm tiến đang phải đối phó với cuộc chiến tranh phá hoại và khủng bố do Cộng sản điều động từ bên ngoài. Nói một cách khác, đây là cách phát triển dân chủ từ hạ tầng cơ sở đến thượng tầng kiến trúc của quốc Gia. Chỉ trong cơ cấu nầy, người dân quê cô thế và thất học mới thật sự được thụ hưởng những quyên tự do căn bản của con người. Cũng theo Tổng Thống Diệm, phương cách chính trị phù hợp với truyền thống dân chủ ngàn xưa của dân tộc Việt. Đó là người dân được quyến quyết định mọi việc trong làng, phép vua thua lệ làng. Và thượng tầng, vẫn được duy trì được uy quyền tối thượng của quốc Gia.

    Tổng Thống Diệm cũng thường nói với cộng sự viên thân tín như sau:

    Nếu đem áp dụng một cách cứng ngắt kiểu dân chủ Mỹ vào Việt Nam, không những không đem lại lợi ích cho Quốc Gia, mà còn tạo thêm cho một thiểu số giàu có bóc lột những người dân nghèo thất học, giúp phương tiện cho những chính trị gia cơ hội, xu thời và những thành phần thân Cộng ở các thành phố dùng các phương tiện truyền thông để chỉ trích chính phủ, gây thêm rối loạn trong một quốc gia cần sự ổn định, để theo đuổi cuộc chiến tranh sống còn chống lại âm mưu khuynh đảo của Cộng sản. (Võ Văn Hải, đàm luận với tác giả, tại Đalat, 1973)

    – Trong khi đó, những nhân vật  trí thức cấp tiến của Bộ Ngoại Giao Mỹ, Harriman, Hilsman, đã không hiểu được bản chất của cuộc chiến tranh Việt Nam nên đã có những nhận định và chính sách sai lầm khi theo đuổi cuộc chiến tranh chống Cộng. Sau nầy, Tổng Thống Nixon đã phân tích điều đó trong tác phẩm No More Vietnam của ông. Ông cho rằng các chuyên gia của chính quyền Kennedy thời đó đã lầm lẫn cho rằng cuộc chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh cách mạng. Trong khi đó, thực tế, đó là cuộc chiến tranh du kích, phá hoại, khủng bố, đột nhập từ bên ngoài do Cộng sản Hà Nội điều động.

    Chính vì vậy, những chuyên gia nầy luôn luôn đòi hỏi phải mở rộng tự do báo chí, tự do hội họp và lập các đoàn thể, tạo điều kiện cho các chính trị gia đối lập tham gia vào nội các để có thêm hậu thuẩn trong quần chúng. (xem Nixon, op.cit., 1982).

    Đây là những điề kiện mà theo Tướng Taylor của Mỹ nhận xét, ngay chính nước Mỹ cũng không thể áp dụng được trong thời chiến tranh như Thế Chiến Thứ Hai chẳng hạn. Và ngày nay, sau khi cuộc chiến tranh Việt Nam chấm dứt, thực tế càng cho thấy một cách rõ ràng hơn của các cố vấn chính trị của Tổng Thống Kennedy. Thật vậy, Miền Nam đã mất, không phải vì Cộng sản thành công trong việc kêu gọi dân chúng nổi dậy lật đổ chính quyền như sách lược khuynh đảo trong chiến tranh cách mạng do cộng sản chủ xướng. Nhưng thực tế, Miền Nam đã sụp đổ vì Cộng sản đã xử dụng thiết giáp, chiến xa, đại pháo và quân đội chính quy tiến vào Dinh Độc Lập, nghĩa là những phương tiện của một cuộc chiến tranh qui ước đột nhập từ ngoài vào, phối hợp với những hoạt động du kích phá hoại từ bên trong.

    Chính vì thế, Tổng Thống Diệm đã than thở:

    Chúng ta có một người bạn quí giúp đở tiền bạc nhưng không hiểu chi cả về chuyện Việt nam.

    (Nguyễn Văn Châu, 1989, tr.228)

    Trong khi đó, ông Nhu cũng thường tâm sự với cộng sự viên thân cận của ông như sau:

    Mỹ có thói quen bắt buộc các đồng minh phải rập khuôn như họ … nhưng ở Mỹ khác, ở Á Châu nầy khác … Trong một quốc gia hòa bình thì lại hoàn toàn khác với một quốc gia đang có chiến tranh. Tổng Thống kennedy khuyến cáo Việt Nam cải tổ cơ chế dân chủ có nghĩa là phỏng theo phong cách sinh hoạt chính trị xã hội Mỹ . .. Ông cha chúng tôi đã có nhiều kinh nghiệm chia rẽ, nạn kỳ thị và phe phái … Nếu ở Việt Nam áp dụng dân chủ như Mỹ thì chỉ đi đến tình trạng hổn loạn. Mà Việt Nam thì không thể chấp nhận được tình trạng hổn loạn giữa lúc đang có chiến tranh. (Bs trần Kim Tuyến, đàm luận với tác giả, Cambridge, tháng 9, 1986).

    Có lẽ một cách tổng quát phải nói rằng, đối với quan niệm Dân Chủ Tây Phương và tinh thần quản trị khoa học của Mỹ, lề lối làm việc của Tổng Thống Diệm không thể chấp nhận được và Tổng Thống Diệm quả là nhà độc tài vì Ông ta không biết cách ủy nhiệm quyền hành và phân quyền trong guồng máy cai trị quốc gia.

    Tuy nhiên, trong thực tại chính trị Việt Nam, có lẽ cũng là một sai lầm nếu nghĩ rằng những phương pháp đem lại kết quả tốt ở Phương Tây, nó cũng sẽ đạt được những thành tích như vậy, khi đem áp dụng ở Phương Đông. Và những nhà làm chính sách ở Hoa Thịnh Đốn càng không thể tránh được những lỗi lầm nghiêm trọng, khi họ quá tự phụ về những hiểu biết của họ, nhưng trong thực tế, họ rất nghèo nàn trong kiến thức về văn minh và lịch sử Việt nam.

    Dân Chủ Theo Lối Mỹ

    Có một sự thật hết sức mĩa mai, các viên chức thuộc Bộ Ngoại Giao Mỹ luôn luôn đòi hỏi Tổng Thống mở rộng tự do, đề cao dân chủ pháp trị cho phép những đảng phái tham gia vào nội các, nhằm lôi cuốn sự ủng hộ của quần chúng về phía chính quyền. Đồng thời, chính họ lại là những người bất chấp cả những nguyên tắc căn bản của công pháp quốc tế, bí mật xử dụng quyền lực của Mỹ để lật đổ chính quyền Ông Diệm.

    Thật vậy, từ năm 1954, những nhà làm chính sách của Mỹ tại Bộ Ngoại Giao nghĩ rằng họ có quyền thay đổi chính phủ Việt nam, nếu quyền lợi của nước Mỹ đòi hỏi như vậy. William C.Gibbons đã phân tích chính sách đó như sau:

    Từ lúc khai sinh ra chính quyền Diệm vào năm 1954, nhiều nhà làm chính sách Mỹ đã cho rằng, trong những trường hợp nhất định nào đó, Mỹ quốc không những có quyền mà còn có trách nhiệm đem đến một sự thay đổi tại Việt nam. Đường lối nầy cũng khá phổ biến trong việc bang giao cũa Mỹ đối với chính quyền của những quốc gia khác trên thế giới, mà ở đó quyền lợi của Hoa Kỳ đòi hỏi những hành động như thế. Và để theo đuổi triết lý nầy, Hoa Kỳ đã sắp đặt và hổ trợ những cuộc đảo chánh tại Ba Tư và Guatamala để thay thế những nhà lãnh đạo của những chính phủ của các nước đó, bằng những người lãnh đạo do Hoa Kỳ chọn lựa.

    (xem William C.Gibbons, quyển II, 1961-1964, tr 140-141)

    Một sự thật khác cũng khá ngộ nghĩnh, các viên chức dân sự có học thức tại Bộ Ngoại Giao Mỹ thường tỏ ra thái độ bảo thủ, thực dân, khinh thường chủ quyền của các dân tộc khác. Trong khi đó, các tướng lãnh và các nhà quân sự tại Bộ Quốc Phòng lại là những người có đầu óc tiến bộ, ôn hòa, biết kính trọng chủ quyền cùa các quốc gia khác và lại am hiểu tình hình Việt Nam một cách sâu rộng hơn. Thật vậy, khi điều trần trước quốc Hội Mỹ, Thượng Nghị Sị Church đặt câu hỏi, liệu Mỹ có thể xử dụng áp lực buộc Ông Diệm phải thay đổi chính sách không? Tổng Trưởng Quốc Phòng Mỹ MacNamara trả lời:

    Vâng, việc xử dụng áp lực nằm trong khả năng của chúng ta. Nhưng việc bảo đảm để [Diệm] hành động phù hợp với những điều khuyến cáo của chúng ta, nó vượt ra ngoài khả năng của chúng ta.  Đây là một chính quyền độc lập và tôi nghĩ rằng thật không thích hợp để chúng ta cho rằng, đó là một thuộc địa [của chúng ta]. (xem Gibbons, op.ct., tr.192).

    Trong khi đó Tướng Taylor cũng đã xét một cách chính xác về tài lãnh đạo của Tổng Thống Diệm, khi ông phát biểu trước Ủy Ban Ngoại Giao của Thương Viện Mỹ vào ngày 8.10.1963:

    Chúng ta cần một người cứng rắn để lãnh đạo quốc gia nầy, chúng ta cần một nhà độc tài trong thời gian chiến tranh và chúng ta đang có nhân vật đó. Quốc gia nầy đang trải qua một cuộc nội chiến và tôi nghĩ rằng cố gắng áp đặt những điều mà chúng ta gọi là những tiêu chuẩn dân chủ bình thường đối với chính quyền nầy là một điều không thực tế. (Ibid.)

    Nhầm lẫn chết người

    Nhưng sự khác biệt quan trọng hơn hết là những lý do thầm kín bắt nguồn từ quyền lợi của hai quốc gia. Đối với Tổng Thống Diệm, con người đã hy sinh cả cuộc đời của Ông để tranh đấu cho độc lập và chủ quyền của Quốc Gia. Đối với Ông, đó là những thứ thiêng liêng nhất, không thể bị hy sinh, không thể dùng để đổi chác bất cứ điều gì. Đối với Ông, nếu để người Mỹ can thiệp vào nội bộ Việt Nam , thì chủ quyền Quốc Gia bị xâm phạm, chính nghĩa của cuộc tranh đấu chống Cộng cũng mất… Do đó, dù có nhận bao nhiêu viện trợ của Mỹ đi nữa Miền Nam sẽ thua Cộng sản. Bài học của thực dân Pháp tại Việt Nam 1946-1954 đã cho thấy điều đó. Ông Diệm đã thẳng thắn bày tỏ quan điểm đó cho Đại Sứ Nolthing biết:

    Việt Nam không muốn trở thành một xứ bảo hộ [của Mỹ] (Viet Nam does not want to be a protectorate) .

    Xa hơn nữa, một nhà nho như Ông Diệm được đào tạo theo một hệ thống giáo dục đặt nặng trên những giá trị đạo đức cá nhân và gia đình theo quan niệm của Khổng Tử và Ông cũng hấp thụ quan niệm dân chủ cổ điển và lý tưởng Montesquieu, Voltaire, Jean Jacques Rousseau … từ thế kỷ 19 của Pháp. Do đó, Ông Diệm rất khó hiểu được thực tế chính trị văn minh nước Mỹ, một nên văn minh chú trọng đến những quyền lợi kinh tế vật chất và thực tiễn của đời sống. Tổng Thống Diệm đã lầm lẫn khi nghĩ rằng dù có những bất đồng quan điểm với những nhà làm chính sách Mỹ, nhưng vì sự nghiệp đấu tranh cho Tự Do Dân Chủ và chống Cộng chung của hai Quốc Gia, Hoa Kỳ là đồng minh mà Ông có thể dựa vào lúc chung cuộc.

    Nhưng đây chính là sự lầm lẫn hết sức nghiêm trọng có lẽ đã dẫn đến cái chết của Tổng Thống Diệm. Vì cho đến lúc chết, Ông Diệm vẫn không tin rằng chính Tổng Thống Kennedy đã chính thức chấp thuận một cuộc đảo chánh lật đổ chế độ của Ông. Trong thực tế, nếu Ông Diệm biết cuộc đảo chính do người Mỹ sắp đặt, Ông ta nghĩ rằng đó chỉ là một số nhân viên trong chính quyền Mỹ và những nhân viên CIA chống Diệm mà thôi.

    Thật vậy, chính Tổng Thống Diệm cho đến 10 giờ sáng ngày 1.11.1963, vẫn còn tin rằng chỉ có CIA Mỹ nhúng tay vào vụ đảo chánh, cho nên Ông đã phàn nàn với Đại Sứ Lodge về âm mưu đó:

    Tôi biết sẽ có một cuộc đảo chánh xảy ra, nhưng tôi không biết ai sẽ thực hiện.

    I know there is going to be a coup, but I don’t know who is going to do it.

    (Điện văn của Tòa Đại Sứ Sài Gòn số 841 ngày 1.10.1963)

    Lodge còn long trọng trả lời Tổng Thống Diệm:

    Ngài có thể an tâm, nếu có bất cứ người Mỹ nào có hành động sai trái nầy, tôi sẽ trục xuất họ ra khỏi nước nầy.

    (You can be sure if any American committed an impropriety, I [would] snd him out of the country. (Ibid.)

    Trong khi đó, Tổng Thống Diệm đã không thể nào hiểu được rằng, chính Tổng Thống Kennedy, nhà lãnh đạo chính quyền nước Mỹ, một quốc gia thượng tôn pháp luật và dân chủ, đã chính thức chấp nhận cuộc đảo chánh để ám hại Ông.

    Tóm lại, sau khi duyệt xét lại những liên hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam , cùng những khác biệt quan điểm dân chủ giữa Tổng Thống Diệm và chính quyền Kennedy ta thấy những đổ vỡ khó có thể tránh được. Và viên đạn mà các tướng lãnh Việt Nam quyết định bắn vào đầu Tổng Thống Diệm và Ông Nhu, cố vấn của Ông vào ngày 2.11.1963 đã là một sáng kiến của người Mỹ, được lưu trử trong tài liệu Hội đồng An Ninh Quốc Gia Mỹ từ năm 1961, mặc dù đã được bôi xóa một cách cẩn thận. Thật vậy, trong bản lược thuật ngày 5.10.1961 gởi cho Carl Kaysen, một thành viên trong ban Tham Mưu của Hội Đồng An Ninh Quốc Gia, Frank C.Child, một cựu nhân viên trong Phái Bộ Viện Trợ của Đại Học Tiểu Bang Michigan tại Việt Nam, đã viết:

    Chỉ có một cuộc đảo chánh quân sự – hay là một viên đạn ám sát – mới thay thế quyền lãnh đạo tại Việt Nam.

    Từ những dữ kiện nầy cho thấy một số giới chức tại Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ đã chuẩn bị cho cuộc đảo chánh và có ý định tiến hành một cuộc ám sát Tổng Thống Diệm từ lâu.

    Và cuộc đảo chánh ngày 1.11.1963 bắt nguồn từ những lý do sâu xa, đó là khác biệt giữa hai nền văn hóa Đông – Tây, giữa quan niệm về Dân Chủ Tự Do, những định chế chính trị và hoàn cảnh xã hội của Quốc Gia phát triển kỷ nghệ và một Quốc Gia chậm tiến, cộng thêm với sự hiểu biết về bản tính cá nhân và mâu thuẩn quyền lợi quốc gia đã khiến nhà lãnh đạo của nước Mỹ phải chính thức quyết định một cuộc đảo chánh lật đổ vị lãnh đạo của một quốc gia gọi là Đồng Minh với họ.

    Có lẽ các lãnh đạo Hoa Kỳ đã không hiểu rõ hay không đánh giá đúng mức tầm quan trọng của những khác biệt đó cho nên sau khi đã lật đổ Tổng Thống Diệm, lập lên được những chính phủ quân nhân như họ mong muốn, họ vẫn thất bại không đem đến sự ổn định và dân chủ cho dân chúng Miền Nam. Có lẽ cũng chính vì lý do đó, mà với phương tiện chiến tranh hết sức qui mô và tối tân của một siêu cường bậc nhất trên thế giới, họ đã thua cuộc chiến tranh tại phần đất nghèo nàn và nhỏ bé như Việt Nam.

    Tiến Sĩ Phạm Văn Lưu

  6. Hậu quả tai hại của Hội nghị Thành Đô

    BBC

    Dương Danh Dy

    25-10-2015

    H1

    Các ông Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Văn Linh và Đỗ Mười. Nguồn ảnh: Internet

    …Hơn 20 năm sau Hội nghị Thành Đô, nay có dịp nhìn lại vấn đề, người ta sẽ thấy “ngộ” ra được một số điều mà ngay từ khi được phổ biến kết quả của Hội nghị, những người quan tâm đến tình hình đất nước lúc đó đã ít nhiều biểu thị sự không đồng tình.

    Bước đầu, xin mạnh dạn công khai một số yếu kém của phía chúng ta, cũng như xin thẳng thắn đề cập tới một vài tác hại của những “quyết đoán” sai lầm khi đó đối với đất nước.

    Nêu ra một số việc, không phải là muốn truy cứu trách nhiệm chính trị, hoặc nhằm bôi xấu, hạ thấp uy tín của một ai mà chỉ nhằm một mục đích: nếu không thấy hết những dại khờ, non yếu của chúng ta, không vạch trần những mưu ma chước quỷ của kẻ mà cho đến tận giờ phút này trong chúng ta vẫn còn có không ít ngưòi lầm tưởng họ là những đồng chí cộng sản, những người đang cùng chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội thì sẽ là một nguy hại to lớn, lâu dài, tiềm ẩn đối với dân tộc.

    Ngoài những nhân nhượng vô nguyên tắc về Campuchia như đã trình bày ở bài trước, phía Việt Nam đã không hề (hay không dám) đề cập tới nguyên nhân tạo ra bất đồng trong quan hệ Việt Trung trong hơn 10 năm qua nhất là cuộc Chiến tranh Biên giới tháng 2 năm 1979 do Ban lãnh đạo Bắc Kinh cố tình, chủ động gây ra.

    Phía Việt Nam đã hoàn toàn cho qua vấn đề sau khi nghe Giang Trạch Dân nói trong diễn văn: quan hệ hai nước từ nay “hãy gác lại quá khứ, hướng tới tương lai”.

    Đó là những điều ngưòi viết bài này thu nhận được sau khi đã hỏi kỹ đồng chí phiên dịch và nói chuyện nghiêm túc nhiều lần với đồng chí Hồng Hà khi đồng chí còn sống tại một số cuộc họp và tại phòng làm việc của đồng chí tại số 2 Nguyễn Cảnh Trân và tại nhà riêng của tôi do đồng chí chủ động tới gặp.

    Không dám hé một lời

    Chúng ta không đòi Trung Quốc phải bồi thường chiến tranh trong khi đã nêu vấn đế Mỹ bồi thường chiến tranh là điều kiện tiên quyết để bình thường hoá quan hệ hai nước nhưng tại sao trong đàm phán bí mật lại không dám nói dù chỉ là một lời với Trung Quốc về cuộc chiến tranh tàn ác đó và buộc họ chí ít phải nói ra câu ‘lấy làm tiếc’ về hành động phi nghĩa của mình?

    Nhượng bộ vô nguyên tắc này của Việt Nam đã làm cho Trung Quốc dường như giành được ‘vị thế chính nghĩa’ trước dư luận quốc tế và nhất là trong đông đảo nhân dân Trung Quốc dù họ mang hơn 60 vạn quân chính quy xâm lược, giết hại nhiều đồng bào ta, tàn phá nhiều cơ sở vật chất của ta tại vùng sáu tỉnh biên giới Việt Nam.

    Làm cho một bộ phận người trên thế giới cho rằng những vu cáo bịa đặt của Trung Quốc: ‘Việt Nam xua đuổi người Hoa’, ‘Việt Nam xâm lược Campuchia’… là đúng, việc thế giới ‘lên án, bao vây cấm vận Việt Nam’ là cần thiết, việc Trung Quốc ‘cho Việt Nam một bài học’ là phải đạo…trong khi chính chúng ta mới là ngườì có công lớn trong việc đánh tan bọn Khơme Đỏ, cứu nhân dân Campuchia khỏi nạn diệt chủng. Tóm lại là đã làm cho khá nhiều người trong thời gian khá dài hiểu lầm, ác cảm với Việt Nam.

    Cho tới khi đặt bút viết những dòng này mặc dù đã mất nhiều công sức tìm hiểu, người viết vẫn chưa biết ai là người đề xuất chủ trương cấm không được nói lại chuyện cũ với Trung Quốc, khiến cho trong hơn 20 năm qua, trên các phương tiện truyền thông của Việt Nam không hề có một tin tức nào động chạm tới Trung Quốc. Ngay cả tên tuổi, nghĩa trang của các liệt sĩ hy sinh trong cuộc đấu tranh yêu nước thần thánh trên cũng bị cố tình lảng tránh không dám công khai nói tới, thậm chí bị lãng quên.

    Cuộc Chiến tranh Biên giới năm 1979 bị quên đi

    Cuộc Chiến tranh Biên giới năm 1979 bị quên đi

    Cần phải nói ra đây một sự thực là trong khi đó, báo, mạng chính thống của Trung Quốc vẫn ra sức tung hoành, không hề bị một sự cấm đoán, hạn chế nào, ngày ngày tìm hết cách để bôi xấu, xuyên tạc Việt Nam về mọi mặt, đến nỗi phần lớn người dân Trung Quốc bình thường khi được hỏi về Việt nam cũng thốt lên, Việt Nam là ‘vô ơn bội nghĩa, là kẻ ăn cháo đá bát’…

    Theo tài liệu chính thức của Trung Quốc trong một cuộc điều tra công khai, đã có tới “80% dân mạng Trung Quốc – tức khoảng 300 triệu ngưòi-chủ yếu là thanh niên và người có học – tán thành dùng biện pháp vũ lực với Việt Nam tại Biển Đông.

    Cảm tình, ấn tượng tốt đẹp của đa số nhân dân Trung Quốc về một nước Việt Nam anh dũng trong chiến đấu, cần cù trong lao động, hữu nghị với Trung Quốc trước đây dường như không còn nữa. Hậu quả tai hại này chưa biết bao giờ mới xoá bỏ được.

    Chấp nhận yêu sách trắng trợn của phía Trung Quốc gạt bỏ mọi chức vụ trong và ngoài đảng đồng chí Nguyễn Cơ Thạch, Uỷ viên Bộ Chính trị, Phó Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam, rồi lợi dụng mọi cơ hội đế đến Đại hội 8 Đảng Cộng sản Việt Nam chính thức làm được việc đó khi đồng chí là một trong số rất ít người lãnh đạo có tư duy sáng tạo, am hiểu tình hình quốc tế, có sức khoẻ dồi dào, có uy tín quốc tế, nhất là đối với các nước Phương Tây là một việc làm thể hiện sự yếu kém về bản lĩnh và sự tha hoá về tình nghĩa cộng sản, là một việc làm dại dột “vác đá tự ghè chân mình”…

    Có thể nói mà không sợ quá mức rằng, nếu Nguyễn Cơ Thạch còn trong ban lãnh đạo cấp cao Đảng ta một nhiệm kỳ nữa thì việc bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ và việc Việt Nam gia nhập Asean chắc chắn không phải mãi đến năm 1995 mới thực hiện, chậm hơn việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc tới gần 5 năm.

    Ban lãnh đạo Bắc Kinh các thế hệ, lo sợ ảnh hưởng của Nguyễn Cơ Thạch tới mức, mặc dù ông buộc phải nghỉ hưu và mất đã khá lâu mà hơn hai mươi năm sau ngày bình thưòng hoá quan hệ Việt Trung, tại Đại hội lần thứ XI ĐCSVN tháng 1 năm 2011 họ còn không muốn để con trai ông làm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Việt Nam (lời nguời lãnh đạo đảng ta lúc đó nói, tôi được nguyên đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh trực tiếp cho biết)

    Cần nói thêm, việc ngoan ngoãn chấp hành yêu sách gạt bỏ đồng chí Nguyễn Cơ Thạch đã tạo điều kiện để từ sau đó, Bắc Kinh can thiệp ngày càng sâu hơn vào công tác cán bộ, nhân sự chủ chốt của đảng và nhà nước ta qua mấy kỳ đại hội Đảng (IX, X, và XI) nhằm có người thân Trung Quốc trong cơ cấu lãnh đạo cấp cao.

    Quan hệ Việt - Trung đ̣ã trải qua nhiều bước thăng trầm. Ảnh: internet

    Quan hệ Việt – Trung đ̣ã trải qua nhiều bước thăng trầm. Ảnh: internet

    Việc tỏ ý không muốn thấy con trai đồng chí Nguyễn Cơ Thạch nêu trên chỉ là một ví dụ gần đây nhất.

    Đây là việc chưa từng có trong Đảng ta. Chúng ta đều biết thời Bác Hồ, trong Đảng ta tuy có người này kẻ kia thân Liên Xô, thân Trung Quốc nhưng ngưòi nào cũng phải nghiêm chỉnh chấp hành đường lối của Đảng, thời đồng chí Lê Duấn là người lãnh đạo chủ yếu đã không duy trì được nếp chung sống đó, nhưng bất kể là ai hễ thân Liên Xô, thân Trung Quốc trong đảng đều bị loại trừ.

    Có thể nhận định thế này thế nọ về hiện tượng trên nhưng có một điều có thể khẳng định, thời đó nước ngoài và nhất là Trung Quốc, không thể trực tiếp thò tay can thiệp vào nội bộ Đảng ta nhất là vê công tác nhân sự tổ chức.

    Nhưng từ năm 1991 đến nay, việc Trung Quốc can thiệp vào nội bộ ta đã hầu như đã diễn ra thường xuyên và chưa hề bị lên án. Phải chăng đã xuất hiện ‘Nhóm lợi ích thân Trung Quốc’ trong Đảng ta? Không giải quyết được tình trạng này thì hậu hoạn khôn lường.

    Bài học bị dắt mũi nhớ đời

    Không thể dùng các từ ngữ thông thưòng để đánh giá các hậu quả trên mà phải dùng từ “cái giá phải trả bằng xương máu” mới phản ánh đúng bản chất của vấn đề.

    Hội nghị Thành Đô đã, đang và sẽ còn mang lại cho đất nước chúng những hậu quả to lớn, cay đắng, nhục nhã…

    Vì vậy một vấn đề cũng quan trọng không kém mà người viết xin mạnh dạn khởi đầu trước: từ những cái giá phải trả đó chúng ta cần rút ra những bài học gì? Cần ghi nhớ những bài học nào?

    1. Những ngưòi lãnh đạo chủ chốt của Đảng ta lúc đó hầu như không nắm được những thay đổi, những diễn biến lớn trên trường quốc tế, nhất là về các nước XHCN Đông Âu, tình hình Liên Xô, tình hình Mỹ cũng như tình hình đối thủ trực tiếp của mình lúc đó là Trung Quốc. Từ đó đã có những nhận định rất sai lầm để rồi đưa ra những quyết định rất sai lầm.

    Lãnh đạo Việt Nam đã nhận định sai về vị thế quan hệ Trung - Xô. Ảnh: Reuters

    Lãnh đạo Việt Nam đã nhận định sai về vị thế quan hệ Trung – Xô. Ảnh: Reuters

    Thắng lợi của Công đoàn Đoàn kết tại Ba Lan, sự kiện Bức tường Berlin bị nhân dân Đức xoá bỏ, việc Yeltsin giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tại Liên bang Nga, Gorbachev từ bỏ chủ nghĩa xã hội và đảng cộng sản… đã không làm cho một số ngưòi trong ban lãnh đạo chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội đã không còn được nhân dân ở chính ngay những nước đó ưa thích, theo đuổi, sự sụp đổ của họ là lẽ tất nhiên.

    Trong tình hình như thế mà lại chủ trương ‘bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc để bảo vệ chủ nghĩa xã hội, chống đế quốc’, ‘Mỹ và Phương Tây muốn cơ hội này để xoá cộng sản’.

    “Nó đang xoá ở Đông Âu. Nó tuyên bố là xoá cộng sản trên toàn thế giới. Rõ ràng là nó là kẻ thù trực tiếp và nguy hiểm. Ta phải tìm đồng minh. Đồng minh này là Trung Quốc.” (trích Hồi ký Trần Quang Cơ)

    Cần thấy rằng, trước đó Liên Xô là chỗ dựa về nhiều mặt của Việt Nam, tuy vậy phải nói thẳng ra rằng, so với Cuba thì Việt Nam tương đối ít lệ thuộc hơn. Thế nhưng trong khi Cuba phụ thuộc nặng nề vào Liên Xô, lại ở ngay sát nách Mỹ đã không tỏ ra hoảng hốt khi Liên Xô tan rã, và các bạn ấy vẫn hiên ngang đứng vững từ đó đến nay, Mỹ không dám can thiệp… thì Việt Nam đã phải vội vã quay sang tìm đồng minh ngay với kẻ đang là đối thủ nguy hiểm trực tiếp của mình chỉ vì cái đại cục chung chung, chỉ vì sợ mất chỗ dựa, sợ có thể mất chủ nghĩa xã hội, mất Đảng.

    Không thấy hết những khó khăn trong ngoài nước của Trung Quốc lúc đó. Trong nước họ vừa xảy ra sự kiện Thiên An Môn, Triệu Tử Dương bị cách chức Tổng Bí thư, nội bộ lãnh đạo cấp cao bất đồng sâu sắc, một bộ phận nhân dân bất mãn với Đảng Cộng sản Trung Quốc.

    Do đàn áp đẫm máu học sinh sinh viên, Trung Quốc bị các nước Phương Tây chủ yếu cấm vận về chính trị, kinh tế, quân sự, có hạng mục như xuất khẩu kỹ thuật cao trong quân sự đến nay vẫn chưa huỷ bỏ.

    Họ ở vào thế không có lợi nhiều mặt khi bình thường hoá quan hệ với ta, nhưng do mấy nhà lãnh đạo chúng ta lúc đó đánh giá không đúng tình hình nên không những không sử dụng được lợi thế của mình, mà còn bị Trung Quốc ‘dắt mũi’ kéo theo, thiệt đơn thiệt kép trong xử lý quan hệ cũ và trong giai đoạn bình thường quan hệ mới, cho tới tận bây giờ và cả trong tương lai nữa.

    Lãnh đạo Đảng năm 1990 đã đánh mất bản lĩnh và trở nên sợ địch

    Lãnh đạo Đảng năm 1990 đã đánh mất bản lĩnh và trở nên sợ địch

    Không thể không đề cập tới một vấn đề nữa là trong hơn 10 năm đối kháng, nhà nước Xã hội chủ nghĩa Trung Quốc, Đảng Cộng sản Trung Quốc đã không từ thủ đoạn nào trong đối xử với nước ta, không những thế thái độ của họ trong đối xử với Liên Xô, trong đối xử với nước Ấn Độ láng giềng đồng tác giả với họ trong đề xướng 5 nguyên tăc chung sống hoà bình những năm trước đó.

    Chẳng lẽ Ban lãnh đạo Việt Nam lúc đó lại không thấy chút nào?

    2. Bằng những thoả thuận tại Hội nghị Thành Đô, mấy nhà lãnh đạo chủ yếu của Đảng ta lúc đó đã tự đánh mất bản lĩnh kiên cường, bất khuất, không sợ địch mà nhiều thế hệ lãnh đạo đã nêu cao, để sẵn sàng nhận sai về phần mình trước kẻ thù, tuỳ tiện đổ lỗi cho người tiền nhiệm.

    Người viết bài này không hiểu vì sao, người đại diện cho Đảng ta, một nhân vật có tinh thần sáng tạo lớn với ý chí kiên cường đã tích cực phát triển đường lối cải cách và Đổi mới và chỉ đạo toàn Đảng toàn dân thu được những thành tích to lớn rất quan trọng bước đầu, thế nhưng trước đối thủ Trung Quốc hình như chỉ còn là chiếc bóng, mất hết cảnh giác cách mạng gật đầu tin tưởng và làm theo mọi đề xuất mang đầy chất lừa bịp ‘vì chủ nghĩa xã hội’, ‘vì đại cục’ của Trung Quốc, thậm chí chấp nhận để họ can thiệp vào công việc nhân sự cấp cao của đảng ta.

    Bài học này, cần được phân tích sâu sắc trong toàn Đảng, toàn dân, một mặt để thấy rõ sai lầm quá khứ, một mặt để ngăn chặn, phá tan những âm mưu, mánh khoé mới của ngưòi ‘láng giềng bốn tốt’, của ‘những đồng chí’ luôn rêu rao ’16 chữ vàng’ đang không ngừng vận dụng những thành quả cũ vào trong quan hệ với Việt Nam chúng ta hiện nay và trong tương lai.

    Bài viết thể hiện quan điểm riêng của nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy, hiện sống tại Hà Nội. Mời quý vị đọc bài trướcHọp Thành Đô ‘nguyên nhân và diễn biến’

  7. Xã Hội Không Tổ Chức

    Chính đề Việt Nam, tác giả Tùng Phong Ngô đình Nhu, phát hành: Nguyễn Kim Vỹ, Nguồn: vnthuquan.net,trang 173-177.

    Chúng ta đã thấy, trong một đoạn trên, xã hội của chúng ta ngày nay hoàn toàn vô tổ chức. Sự vô tổ chức đã bắt đầu từ ngày, trong công cuộc Nam tiến, sự chiếm đóng các đất mới đã không được thi hành đúng theo nguyên tắc tổ chức hạ tầng của xã hội chúng ta, lúc nguyên khởi. Các làng mạc ở Nam miền Trung và miền Nam mất dần hình thức chặt chẽ và trù mật cần thiết cho một cuộc sống tập thể. Vì vậy cho nên, cùng với sự mất hình thức trù mật của hạ tầng, tổ chức xã hội hạ tầng cũng mất. Thời kỳ Pháp thống trị đã làm cho sự tan rã đó càng thêm trầm trọng. Đối với nơi nào mà các tổ chức hạ tầng đã hư hỏng thì sự thống trị của Pháp càng làm cho sự hư hỏng tăng thêm nhiều lên. Bởi vì, như chúng ta đã biết, bản chất của nền cai trị thực dân là không thiết gì đến tương lai của dân bị trị.

    Nhưng nhiệm vụ của nó chỉ giữ trị an. Và vì vậy cho nên tổ chức quần chúng của chúng ta đối với người Pháp, là không quan hệ, ngược lại, nó còn là một trở lực cho công cuộc trị an. Người Pháp chỉ chú trọng đến một bộ máy hành chính chuyên giữ trị an để phục vụ quyền lợi kinh tế của người thống trị. Và như vậy thì sự giữ cho dân chúng sống rời rạc là một yếu tố quyết định cho sự thành công của chính sách thực dân.
    Đối với những vùng mà tổ chức hạ tầng của chúng ta còn tương đối chặt chẽ, như ở miền Trung và miền Bắc, thì người Pháp cũng đã làm vỡ tung các tổ chức xã hội hạ tầng của chúng ta. Trước hết, họ đã mang vào nước chúng ta một hệ thống kinh tế, mà tầm hoạt động bao trùm hết lãnh thổ Đông Dương thuộc quyền của họ, để thay thế một hệ thống kinh tế đặt trên căn bản tổ chức làng mạc xa của chúng ta. Kế đó là sự đặt ra chính sách thuế vụ trực tiếp với người dân để thay thế cho chính sách thuế vụ cũ đặt qua trung gian làng mạc, kể như là những đơn vị xã hội, sau gia đình
    Dù mà các tổ chức hạ tầng của chúng ta có bền chặt đến đâu, những biện pháp trên cũng làm vỡ tung ra được.
    Hậu quả của những sự kiện trên, là sự vô tổ chức của xã hội chúng ta ngày nay. Nếu những tín hiệu tập hợp của chúng ta còn nguyên giá trị, thì ảnh hưởng của sự vô tổ chức này sẽ bớt tai hại. Nhưng chính tín hiệu tập hợp của chúng ta lại cũng mất đi vì thời gian thống trị của thực dân Pháp.
    Vì vậy cho nên, sự vô tổ chức ngày nay là một tình trạng không thể nào để vậy được nếu chúng ta muốn dẫn dắt cộng đồng dân tộc vào con đường thực hiện những công trình vĩ đại như công cuộc phát triển mà chúng ta phải đạt cho kỳ được trong giai đoạn này.
    Trình độ vô tổ chức.
    Chúng ta phải ý thức rằng, sự vô tổ chức của xã hội chúng ta ngày nay ở vào một trình độ rất trầm trọng. Bởi vì chúng ta đã loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản, thì đương nhiên, khi nhận xét rằng xã hội chúng ta vô tổ chức, chúng ta không hề lấy sự quân đội hóa quần chúng trong xã hội Cộng Sản làm tiêu chuẩn. Nhưng, sự kiện mà chúng ta muốn nêu lên, là chính những tổ chức quần chúng của các quốc gia Tây phương, đặt sự tôn trọng tự do cá nhân làm một nghiêm luật của văn minh, chúng ta cũng không có.
    Giả sử có ba nhóm người, một nhóm người của chế độ Cộng Sản, một nhóm của chế độ tự do Tây phơng và một nhóm người Việt Nam. Cả ba nhóm đều đứng trước một thử thách chung: phải vượt qua một đoạn đường dài có nhiều trở lực thiên nhiên bất ngờ, để di chuyển từ một địa điểm A đến một địa điểm B. Hành động của ba nhóm người sẽ ra sao?
    Trước hết, trong nhóm người của chế độ Cộng Sản, theo lệnh của người chỉ huy, tất cả đều vào hàng ngũ đã có của mình. Có từng đội nhỏ, dưới sự chỉ huy nghiêm khắc của một đội trưởng. Tất cả các đội họp lại thành đoàn, đặt dới quyền của một người chỉ huy. Các đội trưởng, súng cầm tay, đạn chuẩn bị, lúc nào cũng sẵn sàng nổ súng, mọi người đều khiếp sợ và nghiêm chỉnh thi hành thượng lệnh. Lãnh tụ giải thích rằng, vì quyền lợi của giai cấp vô sản, Đảng và lãnh tụ nhận định sự di chuyển cần phải được thực hiện theo một lộ trình duy nhất mà lãnh tụ đã biết. Tất cả đều vừa đồng loạt hoan hô vừa nhìn nòng súng sâu thẳm đang chĩa vào người.
    Và cả nhóm tiến lên theo nhịp chân đi của quân đội. Dọc đường gặp trở lực thiên nhiên, cả nhóm người, vì lãnh tụ đã có chủ địnhvà áp lực của nòng súng, vẫn tiến tới để ngã lần vì kiệt sức và trở lực không vượt nổi. Cuối cùng, nhóm người, sau khi tiêu hao sinh lực, phải dừng lại đợi thượng lệnh thay đổi lộ trình. Lệnh xuống, mọi người lại vừa nhìn nòng súng, vừa hoan hô và tất cả lại lên đường theo một lộ trình mới, dẫn dắt đến một trở lực mới. Phong trào nhân dân công xã của Trung Cộng cũng thể hiện trường hợp trên đây.
    Nhóm người của khối tự do sẽ thực hiện cuộc di chuyển một cách khác. Những người này tự chia làm những nhóm nhỏ. Mỗi nhóm không có người chỉ huy, Những có một người được nhóm giao cho trách nhiệm phối hợp các ý kiến chung về cuộc hành trình. Các người trách nhiệm lại hợp nhau, phối hợp hướng đi và tốc độ của các nhóm, để cho sự vận chuyển của toàn thể được điều hòa dưới sự trách nhiệm của một người mà phần đông đều đồng ý trao cho nhiệm vụ lãnh đạo. Theo lệnh của người này, tất cả đều lên đường, mỗi người tuy không thấu triệt những ý thức lý do hành động của cộng đồng và lộ trình trong hiện tại, mặc dầu không có hoan hô rầm rộ, nhưng có sự cương quyết tiến tới và sự nhận thức các trở lực thiên nhiên đang đợi chờ. Dọc đường gặp trở lực thiên nhiên, nhờ không có một chủ định cứng rắn về lộ trình, tất cả đều ngừng lại và lấy kỹ thuật khoa học nhận định thực tế để tìm cách vượt qua. Nhờ vậy mà Tây phơng đã tìm được giải pháp cho các vấn đề xã hội cuối thế kỷ 19.
    Sau cùng, nhóm người Việt Nam, sẽ thực hiện cuộc hành trình như sau. Một người đứng lên, với sự ủng hộ của một vài người khác, giải thích sự cần thiết của cuộc di chuyển và đề nghị một lộ trình. Những người chung quanh, kẻ đứng người ngồi, có người lắng tai nghe, có người đang tính việc riêng, có người đang giải trí, có người đang làm việc. Nhìn chung, một cảnh tượng vô cùng hỗn loạn. Lúc người chỉ huy ra lệnh, một số bước lên đường, nhưng tốc độ không đều, người mau, người chậm. Số còn lại ngồi ngơ ngác không biết phải làm gì. Đi một đỗi, số người đi trước phải trở lại tìm cách thuyết phục những người chưa quyết định. Dằng co, đi, ở không ngã ngũ. Thời giờ qua mà cuộc hành trình chưa bắt đầu, chỉ vì nhóm người của chúng ta chẳng có tổ chức. Do đó, chúng ta bất lực khi cần phải thực hiện một công cuộc cần có sự góp phần của toàn thể cộng đồng.
    Tác dụng của tổ chức quần chúng.
    Sự thể đã như vậy, nếu chúng ta muốn thực hiện một công trình của tập thể, điều trước tiên, mà chúng ta phải làm, là tổ chức quần chúng của chúng ta.
    Nhưng vấn đề quan hệ hơn nữa là bởi vì nếu chúng ta không tổ chức quần chúng của chúng ta, cố nhiên chúng ta không thực hiện được những công cuộc mà chúng ta trù tính.
    Nhưng tình thế không phải chỉ đến đó mà thôi, bởi vì, nếu chúng ta không dẫn dắt được đoàn người trên thực hiện cuộc hành trình dự tính, thì người khác sẽ đến tổ chức họ và dẫn dắt họ đi. Trong giai đoạn hiện tại của quốc gia, nếu chúng ta không tổ chức được quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của cộng đồng thì các nhà lãnh đạo Cộng Sản sẽ tổ chức quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của cộng đồng theo quan điểm Cộng Sản. Nhưng chúng ta đã biết giải pháp Cộng Sản sẽ di hại nh thế nào cho dân tộc.
    Trong thực tế, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, thừa hưởng sự nghiệp nghiên cứu của Cộng Sản quốc tế, đã ý thức sự kiện trên, nên từ lâu đã chú trọng rất nhiều đến việc tổ chức quần chúng. Và chính sức mạnh của họ lâu nay nằm ở chỗ kỹ thuật tổ chức quần chúng, của Cộng Sản Quốc Tế, được đặc biệt nghiên cứu và áp dụng. Và một khi đã tổ chức được quần chúng rồi thì họ lại nắm được trong tay một lợi khí sắc bén mà chúng ta chưa có.
    Do đó, sự tổ chức quần chúng, đối với chúng ta là một yếu tố vô cùng cần thiết, chẳng những để thực hiện bất cứ công cuộc nào của cộng đồng, trong đó công cuộc phát triển là quan hệ nhất, mà đồng thời lại là một lợi khí để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền Bắc, đang hoạt động tại miền Nam.
    Một lần nữa, chúng ta phải nhận thức rõ ràng rằng một bộ máy hành chính, dù có tinh vi đến đâu, một mình cũng không đủ để giải quyết các vấn đề hiện tại của dân tộc. Bởi vì một bộ máy hành chính không, không có một bộ máy tổ chức quần chúng, sẽ không huy động được toàn dân. Sở dĩ có quan niệm sai lầm về vai trò tự mãn của bộ máy hành chính là vì ký ức của thời kỳ Pháp thuộc còn rất mới. Và trong thời kỳ này, thật sự bộ máy hành chính của Pháp rất là hiệu quả. Những lúc bấy giờ những mục tiêu của người Pháp không phải là những mục tiêu của chúng ta hiện nay. Hai điều này chúng ta đã thấy rõ ở một đoạn trên.
    Sau hết, lý do quan hệ nhất để chứng minh tính cách thiết yếu của sự tổ chức quần chúng, chính là công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ được.
    Trong một đoạn ở trên, chúng ta đã thấy rằng công cuộc Tây phương hóa phải toàn diện, nghĩa là phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống, và phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân. Nếu công cuộc Tây phương hóa chi giới hạn trong một nhóm người lãnh đạo, như trường hợp đã xảy ra cho một số quốc gia ở Cận Đông, thì sớm hay muộn quần chúng sẽ ly khai với nhóm người lãnh đạo và tình trạng xã hội sẽ chín mùi cho một cuộc cách mạng lật đổ những người lãnh đạo đã Tây phương hóa. Một công cuộc Tây phương hóa nếu muốn có kết quả mong mỏi thì phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân.
    Một công cuộc Tây phương hóa ăn sâu và lan rộng trong nhân dân, có nghĩa là người chủ trương công cuộc Tây phương hóa phải làm thế nào để cho quần chúng, từ thành thị đến thôn quê, chấp nhận nhiều tập quán mới, theo một lối sống mới và hoạt động theo những tiêu chuẩn mới.
    Một công cuộc vĩ đại như vậy không thể do một bộ máy hành chính, dù có tinh vi đến đâu, cũng không thể chỉ một mình, thực hiện được. Và một công cuộc vĩ đại như vậy, nếu không có sự tham gia thật sự của quần chúng, sẽ thất bại chắc chắn vì lực lượng thụ động của khối người đã quen sống theo những nề nếp mà công cuộc Tây phương hóa đặt cho mình, không chịu thay đổi.
    Đã như thế thì, thực hiện công cuộc Tây phương hóa có nghĩa là trước hết phải hướng dẫn nhân dân ý thức tính cách cần thiết của công cuộc Tây phương hóa và làm thế nào để Tây phương hóa. Sau đó phải dẫn dắt nhân dân đến chỗ hợp tác, với các nhà lãnh đạo, để thực hiện những công tác cần thiết cho công cuộc Tây phương hóa.
    Và những hoạt động có tính cách ăn sâu và lan rộng trong quần chúng như trên, không thể thực hiện được trong tình trạng vô tổ chức của nhân dân ngày nay, trong xã hội của chúng ta. Điều kiện thiết yếu và tiên quyết cho những hoạt động trên là sự tổ chức quần chúng. Và xuyên qua các tổ chức quần chúng đó, những hoạt động trên mới có thể nảy nở đợc và mới có thể đưa quần chúng đến sự hợp tác, trong công cuộc Tây phơng hóa, với các nhà lãnh đạo.
    Tóm lại, các đoạn trên đây, chúng ta nhận thức:
    Trong tình trạng bình thường, các tổ chức quần chúng đã là một yếu tố thiết yếu cho đời sống của một quốc gia độc lập.
    Trong một tình trạng quyết liệt như tình trạng hiện nay, của các quốc gia đang tìm phát triển như chúng ta, các tổ chức quần chúng là một yếu tố còn thiết yếu hơn nữa cho đời sống của quốc gia.
    Trong hiện tại chính trị của miền Nam ngày nay, sự tổ chức quần chúng lại là một khí giới để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền Bắc. Nhưng quần chúng của chúng ta hiện nay hoàn toàn không có tổ chức. Chúng ta quen sống trong một tình trạng hỗn loạn mà chúng ta lầm cho đó là một tình trạng tự do. Thật sự, trở lại vấn đề thăng bằng động tiến cần thiết cho mọi cộng đồng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng, xã hội của chúng ta ngày nay là một xã hội sắp mất thăng bằng nói trên, và chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh mà quyền lợi của cộng đồng bị hy sinh cho quyền lợi của cá nhân. Do đó, sự tổ chức quần chúng và các tổ chức quần chúng, đối với chúng ta, trở thành một yếu tố quyết định cho sự mất còn của cộng đồng.
    Tùng Phong
  8. Hình Ảnh: cuộc chiến biên giới Việt-Trung 17.2.1979

    .

    Một đơn vị pháo của Quân đội Việt Nam tại tỉnh Lạng Sơn đang chiến đấu chống lại cuộc xâm lấn của Trung Quốc dọc biên giới dài 230 km giữa hai nước ngày 23/2/1979. Vào ngày 17/2/1979 sau nhiều tháng khẩu chiến và xung đột, Trung Quốc tiến hành cuộc tổng tấn công vào Việt Nam, nước đồng minh cộng sản của họ để
    Bản quyền hình ảnhSTR/AFP/GETTY IMAGES
    Một đơn vị pháo của Quân đội Việt Nam tại tỉnh Lạng Sơn đang chiến đấu chống lại cuộc xâm lấn của Trung Quốc dọc biên giới dài 230 km giữa hai nước ngày 23/2/1979. Vào ngày 17/2/1979 sau nhiều tháng khẩu chiến và xung đột, Trung Quốc tiến hành cuộc tổng tấn công vào Việt Nam, nước đồng minh cộng sản của họ để “dạy cho Việt Nam một bài học” vì đã tỏ ra không lệ thuộc vào Trung Quốc như họ trông đợi.
    Dân quân Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây bày tỏ ủng họ quân đội của họ đang chiến đấu ở tiền tuyến trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam. Họ tổ chức thành một toán những người khênh cáng hôm 22/2/1979. Cuộc chiến tranh biên giới này được xem là Chiến tranh Đông dương thứ Ba, mà nguồn gốc của xung đột tuy ngắn nhưng đẫm máu là do cạnh tranh về lý tưởng giữa Trung Quốc và Liên Xô cũ.
    Bản quyền hình ảnhSTR/AFP/GETTY IMAGES
    Dân quân Trung Quốc tại tỉnh Quảng Tây bày tỏ ủng họ quân đội của họ đang chiến đấu ở tiền tuyến trong cuộc chiến biên giới với Việt Nam. Họ tổ chức thành một toán những người khênh cáng hôm 22/2/1979. Cuộc chiến tranh biên giới này được xem là Chiến tranh Đông dương thứ Ba, mà nguồn gốc của xung đột tuy ngắn nhưng đẫm máu là do mâu thuẫn ý thức hệ giữa Trung Quốc và Liên Xô cũ.
    Một phóng viên ảnh của Việt Nam bị đánh ngất đi ngày 2/9/1978 vào thời điểm có xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc gần Hữu Nghị Quan.
    Bản quyền hình ảnhARCHIVE/AFP/GETTY IMAGES
    Một phóng viên ảnh của Việt Nam bị đánh ngất đi ngày 2/9/1978 vào thời điểm có xung đột biên giới giữa Việt Nam và Trung Quốc gần Hữu Nghị Quan.
    Một lính biên phòng của Việt Nam đã bị giết hại trong một cuộc tấn công ở Đồng Đăng, biên giới với Trung Quốc, hôm 25/8/1978. Trung Quốc đã tiến hành những cuộc xâm lấn trên diện rộng dọc biên giới với Việt Nam từ năm 1978 trước khi cuộc chiến chính thức bùng nổ ngày 17/2/1979.
    Bản quyền hình ảnhJEAN-PIERRE GALLOIS/AFP/GETTY IMAGES
    Một bộ đội biên phòng của Việt Nam đã bị giết hại trong một cuộc tấn công ở Đồng Đăng, biên giới với Trung Quốc, hôm 25/8/1978. Trung Quốc đã tiến hành những cuộc xâm lấn trên diện rộng dọc biên giới với Việt Nam từ năm 1978 trước khi cuộc chiến chính thức bùng nổ ngày 17/2/1979.
    Đại đội 10, Quân đội nhân dân Việt Nam tại Đồi Chậu Cảnh, tỉnh Lạng Sơn trong tư thế chiến đấu chống lại các cuộc tấn công xâm lấn của Trung Quốc, ngày 21/2/1979.
    Bản quyền hình ảnhSTR/AFP/GETTY IMAGES
    Đại đội 10, Quân đội nhân dân Việt Nam tại Đồi Chậu Cảnh, tỉnh Lạng Sơn trong tư thế chiến đấu chống lại các cuộc tấn công xâm lấn của Trung Quốc, ngày 21/2/1979.
    Ba mươi năm sau, khu vực Lạng Sơn gần Hữu Nghị Quan, nơi từng chứng kiến cuộc chiến ngắn ngủi nhưng khốc liệt giữa hai nước, nay là khu dân cư phát triển và yên bình. Ảnh chụp 5/2/2009, cho thấy một xe tải thương mại của Trung Quốc đang trên đường về nước và bên đường là cột mốc cây số cũ còn sót lại.
    Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/AFP/GETTY IMAGES
    Ba mươi năm sau, khu vực Lạng Sơn gần Hữu Nghị Quan, nơi từng chứng kiến cuộc chiến ngắn ngủi nhưng khốc liệt giữa hai nước, nay là khu dân cư phát triển và yên bình. Ảnh chụp 5/2/2009, cho thấy một xe tải thương mại của Trung Quốc đang trên đường về nước và bên đường là cột mốc cây số cũ còn sót lại.
    Một người Trung Quốc đi thăm Nghĩa trang Tử sĩ của Trung Quốc những người đã chết trong cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người lính trẻ từ cả hai nước và cho tới nay một bức màn bí ẩn vẫn bao phủ cuộc xung đột này và không bao giờ được giải thích rõ ràng với công chúng. Ảnh chụp ngày 22/2/2007.
    Bản quyền hình ảnhMARK RALSTON//AFP/GETTY IMAGES
    Theo các số liệu lịch sử mới nhất của Trung Quốc, 26.000 lính Trung Quốc đã bị giết trong bốn tuần diễn ra cuộc chiến tranh biên giới chính thức bắt đầu từ ngày 17/2/1979 nhưng kéo dài âm ỉ hàng năm trời cho tới khi Việt Nam và Trung Quốc ký Hiệp định biên giới năm 1999.
    Một người Trung Quốc đi thăm Nghĩa trang Tử sĩ của Trung Quốc những người đã chết trong cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người lính trẻ từ cả hai nước và cho tới nay một bức màn bí ẩn vẫn bao phủ cuộc xung đột này và không bao giờ được giải thích rõ ràng với công chúng. Ảnh chụp ngày 22/2/2007.
    Bản quyền hình ảnhMARK RALSTON/AFP/GETTY IMAGES
    Một người Trung Quốc đi thăm Nghĩa trang Tử sĩ của Trung Quốc những người đã chết trong cuộc chiến tranh biên giới với Việt Nam, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của hàng chục ngàn người lính trẻ từ cả hai nước và cho tới nay một bức màn bí ẩn vẫn bao phủ cuộc xung đột này và không bao giờ được giải thích rõ ràng với công chúng. Ảnh chụp ngày 22/2/2007.
    Một sỹ quan Việt Nam bên cột mốc biên giới bên phía lãnh thổ Việt Nam gần Hữu Nghị Quan, tỉnh Lạng Sơn tại biên giới phía bắc với Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 5/2/2009, ba mươi năm sau cuộc chiến.
    Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/AFP/GETTY IMAGES
    Một sỹ quan Việt Nam bên cột mốc biên giới bên phía lãnh thổ Việt Nam gần Hữu Nghị Quan, tỉnh Lạng Sơn tại biên giới phía bắc với Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 5/2/2009, ba mươi năm sau cuộc chiến.
    Ngoại trưởng Việt Nam, ông Phạm Gia Khiêm và Ủy viên Quốc Vụ Viện, ông Đới Bỉnh Quốc, khánh thành một cột mốc biên giới diễn ra ngày 23/2/2009 tại Hữu Nghị Quan, tỉnh Lạng Sơn. Trung Quốc và Việt Nam chính thức hoàn tất việc phân giới cắm mốc biên giới đất liền vốn có tranh chấp từ lâu đời, và đây là bước tiến trong mối quan hệ giữa hai nước láng giềng đã trải qua cuộc chiến khốc liệt năm 1979.
    Bản quyền hình ảnhAFP/GETTY IMAGES
    Ngoại trưởng Việt Nam, ông Phạm Gia Khiêm và Ủy viên Quốc Vụ Viện, ông Đới Bỉnh Quốc, khánh thành một cột mốc biên giới diễn ra ngày 23/2/2009 tại Hữu Nghị Quan, tỉnh Lạng Sơn. Trung Quốc và Việt Nam chính thức hoàn tất việc phân giới cắm mốc biên giới đất liền vốn có tranh chấp từ lâu đời, và đây là bước tiến trong mối quan hệ giữa hai nước láng giềng đã trải qua cuộc chiến khốc liệt năm 1979.
    Những năm gần đây đã diễn ra nhiều cuộc tuần hành của người dân tại các thành phố lớn của Việt Nam để tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới với Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 17/2/2016 những người biểu tình chống Trung Quốc tại chân tượng Lý Công Uẩn ở Hà Nội mang theo biểu ngữ đánh dấu ngày này.
    Bản quyền hình ảnhAFP
    Những năm gần đây đã diễn ra nhiều cuộc tuần hành của người dân tại các thành phố lớn của Việt Nam để tưởng niệm những người đã hy sinh trong cuộc chiến biên giới với Trung Quốc. Ảnh chụp ngày 17/2/2016 những người biểu tình chống Trung Quốc tại chân tượng Lý Công Uẩn ở Hà Nội mang theo biểu ngữ đánh dấu ngày này.
    Những người biểu tình chống Trung Quốc mang theo biểu ngữ tham gia các cuộc tuần hành quanh Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, không chính thức đánh dấu kỷ niệm lần thứ 37 cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu với Trung Quốc ngày 17/2/1979.
    Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/AFP/GETTY IMAGES
    Những người biểu tình chống Trung Quốc mang theo biểu ngữ tham gia các cuộc tuần hành quanh Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, không chính thức đánh dấu kỷ niệm lần thứ 37 cuộc chiến tranh biên giới đẫm máu với Trung Quốc ngày 17/2/1979. Những hoạt động quần chúng bày tỏ thái độ chống Trung Quốc như thế này thường không được chính phủ Hà Nội khuyến khích vì e ngại ảnh hưởng tới quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
    Thắp hương tưởng niệm nhân kỷ niệm ngày cuộc chiến biên giới bùng nổ, 17/2/1979 tại chân tượng đài Vua Lý Thái Tổ ở bên Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội.
    Bản quyền hình ảnhHOANG DINH NAM/AFP/GETTY IMAGES
    Thắp hương tưởng niệm nhân kỷ niệm ngày cuộc chiến biên giới bùng nổ, 17/2/1979 tại chân tượng đài Vua Lý Thái Tổ ở bên Hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội.
    nguon

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s