Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng (Đồng Hóa)

zimage999

Nhân Dân Xã Hội Chủ Nghĩa.
Thể chế cai trị tại Việt Nam là Đảng lãnh đạo, người dân chỉ tuân theo.

Một cách nhìn về lịch sử xung đột Việt-Hoa

Nhìn tổng thể về lịch sử loài người kể từ khi còn là những bộ lạc, người ta ghi nhận sự hình thành, phát triển hoặc tiêu vong của các cộng đồng dân cư (sắc tộc, bộ lạc, xã hội thành thị…), của nhiều định chế chính trị và quyền lực quân sự, như là các quốc gia, các đế quốc, và ngay cả của nhiều nền văn minh. Tất cả những diễn trình lịch sử đó đều tuân theo quy luật biến dịch, mà trong đó có quy luật thiên nhiên khắc nghiệt: “đấu tranh sinh tồn”, thể hiện qua hiện tượng di dân và đồng hóa (kể cả bị đồng hóa). Hiện tượng này đã liên miên xảy ra từ hàng vạn năm trước và sẽ còn xẩy ra bây giờ và sau này.

Vậy nếu áp dụng cách nhìn hiện tượng học “Lịch sử xã hội loài người là lịch sử di dân và đồng hóa (và bị đồng hóa)”, thì có thể thấy rõ động lực của nhiều chu kỳ biến động lịch sử trên thế giới từ xưa đến nay. Cũng từ cách nhìn này, có thể tiên liệu được động thái của nước lớn đối với các nước lân bang nhỏ hơn,và nếu ứng dựng vào lịch sử xung đột Việt Hoa sẽ nhìn thấy được bản chất đảng cầm quyền CSVN ngày nay cùng các sách lược của nó về nội trị và ngoại giao, dựa vào điều kiện và lịch sử hình thành và phát triển của nó, qua đó đánh giá được các chính sách, chiến lược nó đã và đang thực hiện (kể từ 1929), cũng như tiên liệu được kế sách của đảng cầm quyền khi đối phó với thời thế, cùng những hệ lụy của nó đối với tương lai của đất nước VN và nhất là đối với sự tồn tại của dân tộc Việt.Cũng nên ghi nhận rằng, về bản chất (định nghĩa), thì:

– “Quốc Gia (hay Nước, Đất Nước)” chỉ là một Định chế chính trị (political institution) của một vùng lãnh thổ có dân cư; Định chế thì có tính ngắn hạn và dễ thay đổi, thí dụ: Nước Chiêm Thành đã tiêu tan, Quốc-gia Việt Nam Cộng Hòa nay đã không còn nữa (thay thế bằng Nước CHXHVN Việt Nam), Nước Mỹ (Hợp chủng Quốc Mỹ Châu) thì mới có mặt từ khoảng 400 năm nay.
– “Tổ Quốc” là một khái niệm tình cảm cộng đồng đối với khu vực địa lý mà một cộng đồng dân cư đã sinh sống qua nhiều thế hệ, thí dụ: người Việt ở Mỹ chỉ vài ba thế hệ nữa là đa số dù muốn hay không cũng sẽ không còn thiết tha đến đất nước Việt, mà sẽ chỉ còn biết Tổ Quốc mình, Đất nước mình là Mỹ Quốc.
– “Dân tộc” là một tập hợp sinh học thuần nhất của những cư dân sinh sống trong một vùng địa lý.
Dân tộc là thực thể tồn tại lâu dài hơn là những định chế và tình cảm cộng đồng, và cũng là yếu tố căn bản cho Quốc Gia hoặc một cộng đồng dân cư. Tuy nhiên, sự hình thành một Quốc Gia ổn định lâu dài là điều kiện cần để hình thành và phát triển nền văn hóa và văn minh đặc trưng của một dân tộc hoặc cộng đồng dân cư.

Lịch sử và Khảo cổ học đã chứng minh nhiều dân tộc (sắc tộc, bộ lạc, quốc gia…) ở vùng Hoa Nam, lưu vực sông Dương Tử đã bị xâm lược và đồng hóa bởi những sắc dân Hoa Bắc (Hán tộc)- Những sắc tộc nào di dân được xuống Đông Nam Á thì tồn tại được đến ngày nay mà không (hoặc ít) bị đồng hóa, là nhờ địa thế hiểm trở, khí hậu nhiệt đới, và sức sống (dân khí) (*1) của dân tộc đó.

Khuynh hướng nam tiến là bắt buộc đối với người phương bắc (Bắc Á: Mông, Mãn, Hán …), vì không thể bắc tiến và tây tiến được, và cũng vì cần hướng phát triển ra biển và khai thác tài nguyên biển-
Người Việt cũng vậy, sau nhiều đợt di dân và quần cư ở đồng bằng sông Hồng, sông Mã, tạm yên được với Bắc phương vài ngàn năm nhờ vào địa hình biên giới hiểm trở, cũng phải nam tiến, thôn tính và đồng hóa Chiêm Thành, Chân Lạp (nửa nước Miên) (*2), chuẩn bị tây tiến và bắc tiến bằng con đường từ phía Đông Nam (nếu thôn tính xong Miên) để thôn tính Lào. Mộng gồm thâu Đông Dương (hoặc thành lập Liên bang Đông Dương) của người Việt vẫn được ôm ấp kể từ thời các vua chúa nhà Nguyễn, vì địa lý nước Việt rất bất lợi cho sự thống nhất, an ninh lãnh thổ và phát triển kinh tế, văn hóa: rặng Trường Sơn phía Tây làm cho miền Trung quá hẹp, rất dễ bị đứt khúc ở khoảng vĩ tuyến 16-18 như lịch sử đã từng chứng minh (Trịnh Nguyễn phân tranh từ thế kỷ 16 đến thế kỷ 18, Hiệp Định Geneve tk 19). Địa lý các nước Miên, Lào cũng bất lợi không kém. Chỉ khi hình thành được “Liên bang Đông Dương”, mở rộng địa lý đất đai và dân số thì mới hy vọng chận đứng chiến tranh xâm lược của nước lân bang phía Bắc.
Khi Thực dân Pháp lập được ách đô hộ trên toàn cõi Việt Nam (Hòa ước Giáp Tuất 15/3/1874), thì lục tỉnh miền tây nam bộ mới được nhập vào VN được khoảng năm mươi năm. Trước đó một chút, nếu VN canh tân kịp đồng thời với Nhật, thì nhiều phần chắc là cho tới ngày nay VN đã kiểm soát được cả Thái Lan, Miến Điện, và trở thành mối đe dọa lớn đối với Tàu, vì biết chừng đâu sẽ có đủ thế lực để đòi lại đất cũ là Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam, thực hiện được hoài bão của vị vua anh hùng Quang Trung. (Nhưng cũng chưa biết chừng, khi gồm thâu được đất cũ, người Việt lại bị Hán hóa giống như dân Mông, Mãn, vì dân số Việt ít hơn, và văn hóa đặc trưng cũng không cao hơn, mạnh hơn….)

Nhìn chung, luật thiên nhiên chung cuộc vẫn là cạnh tranh và sinh tồn. Chủng tộc nào đoàn kết, mạnh, khôn ngoan, sanh đẻ nhiều, chấp nhận mạo hiểm, chấp nhận di dân và lai giống thì sẽ ưu thế hơn các chủng người khác. Mông cổ, Mãn Thanh về quân sự mạnh hơn Hán, nhưng cũng bị Hán hóa vì dân số Hán đông hơn và văn hóa cao hơn, hơn nữa, còn tự nguyện bị đồng hóa, vì dân Mông, Mãn vẫn thán phục, ưa chuộng văn hóa Hán tộc; Tiến trình đồng hóa với địa phương của dân du mục Bắc Á (Mông, Mãn … ) đã xảy ra từ cả vạn năm nay, cho nên nếu xét về gene, thì nhiều dân tộc đã có lai gene Mông Cổ mà không biết (Việt, Hàn, Thái, Nhật, và một số vùng bên Ấn, Hồi, Nga v…v.). Xem ra, diễn trình di dân và lai giống đối với loài người là không thể đảo ngược. Thời Hoa Kỳ lập quốc, những di dân từ Âu Châu qua đã xóa sổ hàng triệu người bản xứ, nhưng ngày nay, sự hình thành và phát triển nước Mỹ Hợp Chủng trên cơ sở các định chế dân chủ sẽ là mô hình thích hợp nhất cho diễn trình này một cách nhân bản, khác hẳn với sự hình thành các đế quốc kiểu phong kiến, thực dân cũ và mới, hoặc phát xít và cộng sản.

Xuyên suốt lịch sử, người Tàu từ Hoa Nam di dân liên tục vào VN và các nước Đông Nam Á từ rất lâu trước cả thời phong kiến bắc thuộc, hoặc vì tha phương cầu thực, hoặc tìm không gian sinh tồn hoặc qua chiến tranh xâm lược (*3), hoặc là hệ lụy các biến động chính trị cận đại, td. Thiên Địa Hội phản Thanh phục Minh, biến cố chiến tranh như Thế chiến 2 (Giải giáp phát xít Nhật). Khi họ vào ít, và không kèm tổ chức chính trị bang hội thì họ bị Việt đồng hóa, td: người Tiều (Triều Châu: Minh Hương) ở miền Trung, lục tỉnh miền Tây và Rạch Giá …, nhưng nếu họ vào nhiều và có tổ chức bang hội, thì họ thành lập khu vực riêng có tiềm năng trở thành khu tự trị (td: Chợ Lớn) (*4), nếu họ tổ chức được chính quyền thì họ tách ra làm quốc gia riêng: Singapore, Đài Loan …, không chịu tùng phục chánh quốc nữa, giống như thời xa xưa An Dương Vương xâm lăng đánh thắng Vua Hùng, và rồi Triệu Đà (207-137BC) sau khi thắng An Dương Vương vậy (*5)

Người Tàu cũng như người Việt, có đầu óc phong kiến, có mộng làm vua một cõi, đồng thời cũng có thói thần phục kẻ mạnh, là kẻ có tài gồm thâu thiên hạ. Thời xưa (trên 3000 năm trước) vốn không có nước Tàu (Trung Hoa), vùng đất đai rộng lớn đó là nơi sinh sống của rất nhiều sắc dân của hàng trăm nước lớn nhỏ, kể cả rất nhiều bộ lạc vùng rừng núi xa xôi, họ luôn luôn đánh nhau để thôn tính thêm đât đai và nô lệ (thời Xuân Thu, Chiến Quôc), chỉ sau thời Đông Chu liệt quốc, Tần Thủy Hoàng thôn tính xong 6 nước cuối cùng, nước Tàu mới thống nhứt, gọi là Trung Hoa. Nên biết nước Tần của Tần Thủy Hoàng thời Đông Chu trở về trước vốn là một sắc dân ở tây bắc nước Tàu, là giống dân lai giữa Mông Cổ và Thổ Nhĩ Kỳ (Ulghur: Thổ Phồn, Hồi Hột), tạo nên người Hoa Bắc, vốn gốc du mục nên rất thiện chiến và hung bạo (*6)- Như vậy nước Tàu hình thành do chiến tranh xâm lược. Lịch sử hình thành nước Tàu là lịch sử xâm lăng và đồng hóa bằng bạo lực chiến tranh. Khi Tàu mạnh cũng vậy, mà khi Tàu yếu, lại càng cần tìm thế chính thống hoặc đánh lạc hướng những bất mãn và khủng hoảng nội bộ bằng cách gây chiến với các lân bang nhỏ yếu.

Trên thế giới từ xưa tới nay, sự kiện các nước tìm cách ảnh hưởng khống chế lẫn nhau là điều không thể không xảy ra, cũng như sự kiện các nước lớn tìm cách can thiệp, khống chế hoặc xâm lăng các nước nhỏ bằng quân sự, kinh tế, hoặc chính trị (qua sự thành lập và yểm trợ các thế lực chống đối trong nước) để thôn tính đất đai, bóc lột tài nguyên và lao động, hoặc đặt căn cứ quân sự … cũng là không thể tránh được. Những lời tuyên bố hữu nghị chỉ là bề ngoài, chỉ là thủ thuật chính trị. Chỉ khi nào có được dân khí cường thịnh, đoàn kết một lòng để xây dựng một nền kinh tế phát triển (như Nhật, Hàn) đồng thời có chánh sách ngoại giao và liên minh khôn khéo (như Thái, Phi luật Tân, Miên…), thì mới tạo nên một thực lực làm cho nước ngoài phải kiêng nể, mới giữ được độc lập dân tộc và chủ quyền lãnh thổ, hạn chế hoặc khống chế được các can thiệp từ nước ngoài. Tiếc thay, điều này dường như đã và đang không thực hiện được ở Việt Nam.

Vậy sẽ có phần thiếu sót cho cả 2 phe người Việt (Quốc, Cộng…) và các bình luận gia khi gọi cuộc chiến ở Việt Nam 1954-1975 là chiến tranh Ý- thức- hệ (quốc cộng, giai cấp … ), hoặc giải phóng (chống Mỹ cứu nước). Ngay cả chiến tranh giải thực trước 1954 cũng đã bị Tàu, kể cả Trung Hoa Dân Quốc (*7), lợi dụng chiêu bài đồng minh, đồng chí, hữu nghị, cố vấn vv…, ngoài mặt là giúp đỡ, nhưng bề trong là để thâm nhập sâu, tạo quyền lực mềm, tiêu diệt mầm mống đối lập gồm cả những nhà ái quốc có tư tưởng dân tộc độc lập, tạo ảnh hưởng văn hóa (Hủy diệt văn hóa địa phương, truyền bá văn hóa phong kiến khuyển nho, hoặc chủ nghĩa Cộng Sản…), ảnh hưởng quân sự (qua các lớp đào tạo sĩ quan, quân nhân, chuyên viên), cài thế lực chính trị (cài đạt, mua chuộc, dung dưỡng những nhân vật thân Tàu hoặc không có tinh thần dân tộc vững chắc vào các cấp chính quyền). Tàu không bao giờ bỏ lỡ cơ hội để dùng ảnh hưởng vô cùng lớn của mình để thực hiện kế sách “Tằm ăn dâu”, không chỉ trong những thời kỳ có chiến tranh, mà cả trong những thời kỳ có vẻ thân thiện hữu nghị Tàu vẫn dùng mọi cách để làm yếu thế lực Việt, băng hoại tinh thần dân tộc Việt, văn hóa Việt, và cả cơ cấu tổ chức xã hội Việt, tạo điều kiện để xâm lăng như họ đã từng làm trong suốt chiều dài lịch sử.

Ví dụ : Cuộc Cải Cách Ruộng Đất đẫm máu để thực hiện đấu tranh giai cấp cuồng tín kiểu Mao-ít, vụ án Nhân Văn giai phẩm rập khuôn theo chiến dịch Trăm Hoa đua nở của Tàu (Bách gia tề phóng, bách hoa tề khai)…. không thể không xảy ra vì nó nằm trong sách lược lâu dài, trong âm mưu thôn tính VN của Tàu (cộng với sự phục tùng của các lãnh tụ CS Việt). Thực chất là chỉ mượn màu đấu tranh giai cấp để che mắt mọi người, nhằm che dấu dã tâm chính là = tiêu diệt sớm những người có tinh thần dân tộc trong hàng ngũ Việt Minh, họ là những tinh hoa của dân tộc Việt, họ đều có học, đều xuất thân từ những gia đình khá giả hoặc tương đối khá giả (do đó dễ bị quy kết vào giai cấp phi vô sản), vì lý tưởng chống thực dân để giải phóng dân tộc, họ đã hết lòng chiến đấu dưới lá cờ Việt Minh do chủ nghĩa yêu nước, họ có uy tín trong dân rất cao sau nhiều chiến thắng quân sự (dĩ nhiên là với sự giúp đỡ có hậu ý của CS Tàu). Nếu những người này không bị tàn sát, thì sau này họ chắc chắn sẽ là những đảng viên cao cấp, những nhà lãnh đạo chính trị quân sự có tài và có tinh thần dân tộc, sẵn sàng bảo vệ tổ quốc trước dã tâm xâm lược của bọn bành trướng bá quyền Đại Hán- Rõ ràng là đối với kế sách xâm lược tằm ăn dâu của Tàu thì cần phải triệt sớm những lãnh tụ tương lai này, có vậy thì về lâu về dài Tàu mới nắm chắc được đảng cầm quyền CSVN để thực hiện những bước thôn tính kế tiếp.
Do vậy, phải nhìn thấy cuộc CCRĐ không phải là do sư sai lầm của các lãnh tụ CSVN hoặc sự ngu muội của cấp thừa hành, mà là sự cài đặt sắp xếp có bài bản và áp lực cực lớn của Tàu (có cả 1 đoàn cố vấn Tầu, đặc trách về CCRĐ bên cạnh Bộ chính trị Đảng CSVN lúc đó) (*8).
Không nhìn thấy rằng dã tâm cực kỳ thâm độc này của Tàu nếu được thực hiện sẽ ảnh hưởng sâu xa lâu dài thế nào đối với vận mệnh dân tộc và đất nước, thì thì quả là các lãnh tụ CSVN quá ngây thơ, không xứng đáng là nhà lãnh tụ, và vẫn phải chịu trách nhiệm với lịch sử, với nhân dân.
Nhưng nếu đã nhìn thấy dã tâm muôn thuở này của Tàu mà vẫn đang tâm nhắm mắt tàn sát đồng chí , đồng đội, đồng bào thì phải gọi là gì đây? Chính danh thì phải gọi đó là tay sai cho giặc, là bọn phản quốc, là bán nước, là có nợ máu với nhân dân-
Chỉ cần nhìn lại lịch sử và suy nghĩ về cuộc CCRD tắm máu mà bề ngoài thì xem ra vô lý này cũng đủ để thấy sự thật về bản chất của tập đoàn lãnh đạo đảng CSVN ngay từ 1956, thế mà tới nay đã hơn nửa thế kỷ vẫn còn quá nhiều người còn hoang mang, vẫn bị tuyên truyền và khẩu hiệu lừa bịp, vẫn bị tiếp tục lừa gạt, vẫn tôn sùng những bàn tay nhuộm đầy máu đồng chí, đồng đội, những bàn tay đã và sắp đẩy muôn triêu đồng bào vào cái chết để thực hiện dã tâm diệt chủng và xâm lược của Tàu. Nếu cứ tiếp tục ngây thơ như thế này mãi thì thế nào cũng phải bị mất nước vào tay Tàu-

Vụ Tổng Công Kích Tết Mậu Thân 1968 mà lực lượng chính là quân đội miền Bắc xâm nhập, đã thất bại về mặt quân sự (*9 ), nhưng mục tiêu bề trong thâm sâu của chiến dịch đó chính là nhằm tiêu diệt những người chiến đấu chống chính quyền miền Nam (VNCH) vì lý tưởng dân tộc chủ nghĩa (tin rằng Mỹ xâm lăng VN như kiểu Tây thực dân), do đó đã phá nát lực lượng quân sự hậu thuẫn cho phe MTGP miền Nam. Miền Bắc đã thành công trong mục tiêu đó, vì đã mượn tay lực lượng VNCH miền Nam để làm triệt tiêu trên 70% lực lượng chiến đấu cũa MT Giải Phóng Miền Nam. Nhờ đó sau 1975, miền Bắc có thể áp đặt quyền lực chính trị và mô hình kinh tế giáo điều XHCN trên toàn miền Nam mà không bị phe miền Nam chống đối, cho dù kinh tế XHCN làm cho miền Nam phá sản, sắp chết đói.

Cũng như các vua chúa nhà Nguyễn với đầu óc phục Tàu, sợ Tàu đã làm cho Việt Nam mất cơ hội hiện đại hóa như nước Nhật cùng thời, đầu óc của những người lãnh đạo CSVN từ xưa tới nay cũng là phục Tàu, sợ Tàu, chắc không mấy người thấy được sự hiểm độc của Chủ Nghĩa CS đối với sự tồn tại của Quốc gia và dân tộc VN. Mặc dù trong Đảng CSVN cũng có người thấy được bản chất bành trướng bá quyền Đại Hán và dã tâm xâm lược của lãnh đạo CS Tàu (phe Lê Duẩn sau 1975), và tìm cách chống trả, nhưng khổ thay, do bị ngộ độc tư tưởng bởi nọc độc Chủ Nghĩa CS (*10), nên sau khi chiếm được miền nam, liền áp dụng chính sách kỳ thị chánh trị đối với người miền nam, nhất là đối với những cựu quân nhân viên chức của phe thua trận, gây nên chia rẽ dân tộc. Đồng thời vẫn giáo điều áp đặt kinh tế XHCN vào miền Nam VN làm cho nền kinh tế đang lên này bị bức tử, phá sản, tức là vẫn trúng kế của kẻ thù phương Bắc (chia rẽ dân tộc, phá hoại sinh lực kinh tế…), đồng thời chiến lược chống đối với Tàu mà dựa vào độc nhất có một nước đồng minh duy nhất theo XHCN còn lại là Liên Xô như trước đây, là 1 nước cờ bấp bênh (nước xa không cứu được lửa gần), và đã thất bại, khiến cho sự tồn vong của VN càng ở vào cái thế nguy hiểm hơn, vừa mất thêm đất đai (sau khi thua cuộc chiến biên giới Việt-Hoa 1979 và 1983), vừa lệ thuộc Tàu nặng nề thêm về mặt chính trị. Điều này gây hậu quả tai hại nghiêm trọng cho tiềm lực nước Việt, và chứng tỏ bản lãnh chính trị kém cỏi của lãnh đạo Đảng CSVN, ít ra là vào thời điểm quan trọng đó- Thử nghĩ xem, nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc không thua gì ở Việt Nam, phe thắng trận miền Bắc nếu cũng cư xử với phe thua trận miền Nam như ở VN sau năm 1975, thì đâu có được 1 nước Mỹ hùng mạnh như ngày nay ?

Nga (Liên xô) vốn âm mưu dùng Chủ Nghĩa CS để thôn tính thế giới, kể cả Tàu, dưới chiêu bài Thế Giới Đại Đồng, nhưng Tàu to quá, Nga nuốt không nổi- Sau này kinh tế kiểu XHCN thất bại, nên Nga Xô Viết xụp đổ, không giữ được những nước nhỏ mới thôn tính được sau thế chiến II – Nhưng Tàu dùng CNCS làm bình phong thì dù thất bại về kinh tế (khi chưa đổi mới theo kiểu tư bản), vẫn có thể thôn tính được các nước Đông Dương, vì kinh tế XHCN nếu làm cho Tàu yếu một, thì sẽ làm cho các nước nhỏ bị yếu 10 lần hơn, đảng cầm quyền do bị cô lập với thế giới tư bản, sẽ phải càng phải lệ thuộc vào đàn anh để có chỗ dựa chính trị, hầu giữ vững quyền lực và quyền lợi-

Rốt cuộc các diễn biến ở VN từ 1927 dường như đều thuận lợi cho sách lược nam tiến ngàn năm không ngưng nghỉ của Tàu. Nghĩ cho cùng, về thực chất sâu xa lịch sử Việt-Tàu từ xưa đến nay toàn là Tàu đánh Việt, toàn là Tàu giấu mặt trá hình, dùng mọi thủ đoạn thâm độc tìm cách làm cho Việt đánh lẫn nhau mà suy yếu đi để dễ nuốt, dân mình Bắc Nam đều chỉ là nạn nhân, các lãnh tụ CSVN hoặc không biết, hoặc bị sai khiến, cũng chỉ là con cờ trong bàn tay phù thủy mà thôi.
Có một điều đáng tiếc, là ở miền Nam VN sau 1954, nếu ông Ngô Đình Diệm có tư tưởng cởi mở hơn, thì đã có thể kéo dài Đệ nhất Cộng Hòa thêm một thời gian đủ để xây dựng được tiềm lực vững mạnh dựa vào sự đoàn kết các đảng phái, tôn giáo và ủng hộ sâu rộng của quần chúng để tạo sức mạnh chống lại sự thao túng của Mỹ và thủ đoạn tuyên truyền của CS, giống như Lý Thừa Vãn, Phác Chính Hi cùa Đại Hàn, Lý Quang Diệu của Singapore cùng thời. Vậy thất bại của ông NĐD phát xuất từ tư tưởng cổ hủ của ông- Xuất thân từ một gia tộc quan lại, bản thân vốn cũng là một đại quan của Vua Bảo Đại, ông cũng như các anh em của ông đã không thể thoát khỏi ảnh hưởng của văn hóa Tống Nho lỗi thời của phong kiến Tàu. Chính đầu óc phong kiến nặng nề đó đã làm cho một lãnh tụ yêu nước như ông Diệm, sau khi lên làm Tổng Thống của nền Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam Việt Nam, không những không phát triển được mối quan hệ hợp tác với các đảng phái QG và các lực lượng chống cộng khác (Cao Đài, Hòa Hảo …) để xây dựng nền dân chủ pháp trị, mà lại còn bị ảnh hưởng của bọn xu nịnh, trở thành chế độ gia đình trị kiểu hoàng thân quốc thích, đưa chế độ vào tình trạng xa rời quần chúng, tạo điều kiện cho địch (kể cả Mỹ) tuyên truyền phá hoại, và như thế là đưa nền cộng hòa còn quá non trẻ đến chỗ sụp đổ quá sớm, không đủ thời gian để xây dựng một hệ thống chính trị và quân sự hoàn toàn mới cho phe Quốc Gia (không còn tàn dư của thời Pháp thuộc qua sự lưu dụng những công chức và sĩ quan cao cấp được Pháp đào tạo). Vậy là lại mất đi thêm một cơ hội để phục hưng sức mạnh Việt tộc chống lại âm mưu xâm lược của Tàu.

Chúng ta nay đã đều biết ai đứng đàng sau Mặt trận Việt Minh (trước 1954) và MT Giải Phóng Miền Nam (trước 1975) để giựt giây? chính là đảng CSVN, con đẻ của Quốc Tế III (Nga Xô), tay sai của đảng CS Trung Hoa. Từ lâu, CS Tàu muốn và đã dùng chủ nghĩa CS đễ thôn tính các nước Đông Dương, mở rộng biên cương xuống phía Nam để làm chủ biển Thái Bình và cả vùng Đông Á. Trong ý đồ đó, miếng xương khó nuốt nhất vẫn là một nước VN thống nhất và hùng mạnh.
Từ 3000 năm nay Tàu thất bại hoặc rất khó khăn khi muốn xâm lăng và đồng hoá VN vì ý chí dân tộc VN còn mạnh, may quá, nay Tàu vớ được Chủ Nghĩa Cộng Sản, dùng ngay mục tiêu hoang tưởng là “Đấu tranh giai cấp để tiến đến Thế Giới Đại Đồng”, tạo ra một thứ chính nghĩa ảo, kiểu “Thiên Đàng hạ giới”, lừa gạt những người cùng khổ, nhẹ dạ, cả tin, hoặc kém suy luận, kém tinh thần dân tộc để che đậy ý đồ xâm lược (của Tàu) và âm mưu bán nước (của thành phần tay sai, thân Tàu trong Đảng CSVN)-

Chiến tranh giải thực ở VN vốn không cần đổ máu nhiều đến thế (do phe phái đánh lẫn nhau, thanh toán nội bộ, đánh thí quân kiểu tấn công biển người….), nhưng với âm mưu làm yếu Việt, Tàu đã xúi dục, cổ võ, yểm trợ cho chiến tranh và phân hóa. Nhìn bề ngoài, thì giống như người Việt chống Pháp, Việt Minh đánh Việt Gian … nhưng thực ra là Hán tộc (Tàu) đánh Việt tộc bằng cách dùng ngay người Việt (Việt Minh) đánh người Việt (các đảng phái Quốc Gia, hoặc phe thân Pháp …). Lực lượng Việt tộc (chính quyền Quốc Gia, các đảng phái Quốc Gia, các tôn giáo…) biết rõ sự phụ thuộc vào Cộng Sản Tàu, Nga của các lãnh tụ Việt Minh, nhưng vì không có chỗ dựa nên đành phải dựa vào Pháp để chống Cộng, mà do Pháp thua, phải ký HĐ Geneve, nên phải cùng chạy xuống miền Nam qua Vĩ tuyến 17-
Sau đó, Tàu lại tiếp tục xúi Việt đánh Việt bằng chủ nghĩa CS và yểm trợ ồ ạt về quân sự cho Mặt Trận GPMN do CS miền Bắc dựng lên, đưa quân Tàu giả dạng Việt vào miền Bắc để miền Bắc có thể xua toàn lực thanh niên Bắc Việt vào quân Giải Phóng xâm nhập miền Nam (sinh Bắc tử Nam) (*11), một công 2 việc, vừa gây chiến tranh huynh đệ tương tàn làm suy yếu dân Việt, vừa lan tràn ảnh hưởng xuống Đông Nam Á-
Như vậy, sau 1975, mặc dù bề ngoài trông giống như phe Xã Hội CN thắng phe Tư Bản, phe Bắc Việt thắng phe Nam Việt, hoặc là Giải Phóng Miền Nam thắng Mỹ … nhưng thực ra vẫn là Tàu thắng Việt, vì Tàu đã thành công trong âm mưu dùng người Việt đánh người Việt, làm cho 2 miền đều kiệt quệ, chết người, hại của.

Nhớ lại, sau khi dàn xếp thỏa hiệp được với Tàu để dồn nỗ lực làm suy yếu Nga, Mỹ phản bội đồng minh, bỏ rơi VNCH, làm ngơ cho Tàu chiếm đoạt Hoàng sa của VN, cắt hết quân viện làm cho miền Nam thất trận 1974 (*12 ) – Sau đó miền Bắc xé bỏ thỏa thuận trước đây với MTGPMN (giữ miền Nam trung lập trong 2 năm rồi mới hiệp thương thống nhất 2 miền), Đảng CSVN áp đặt ngay chế độ độc tài đảng trị, chính sách kỳ thị chính trị và nền kinh tế giáo điều XHCN trên cả nước bằng cách cào bằng lực lượng sản xuất miền nam với các chiến dịch đánh Tư sản và đổi tiền (thực chất là cướp tài sản), cô lập hoặc xua đuổi những người có tinh thần dân tộc, kể cả các lãnh tụ của phe Miền Nam (Mặt Trận GPMN). Một số lớn nhân lực (vài trăm ngàn thanh niên trẻ và chuyên gia các ngành nghề quân sự, dân sự, khoa học kỹ thuật….) có tiềm năng chống Tàu hoặc xây dựng kinh tế rất lớn bị lừa vào các trại cải tạo, thực chất là các trại tù. Một số lớn dân chúng có tiềm năng xây dựng nền công nghiệp và kinh tế thị trường bị cưỡng bức đi khai khẩn vùng hoang vu (gọi là vùng kinh tế mới), bị chết chóc và đàn áp dữ dội. (*13)
Sự kỳ thị chính trị một cách quá khích và nền quản trị quá kém cỏi đã làm Kinh tế cả nước phá sản, tinh thần người dân bị suy sụp, người dân bị đẩy đến chỗ cùng quẫn đến nỗi phải vượt biển ra nước ngoài cả triệu người, là một con số rời bỏ quê hương đất nước rất lớn chưa từng có trong trong lịch sử VN- Cả triệu người, đại đa số là dân thường, kể cả dân miền Bắc (nhất là từ Hải Phòng) phải liều lĩnh chạy ra khơi bỏ quê hương mà ra đi về nơi xứ lạ quê người, bất kể chết chóc và cướp biển (khoảng 1/3 vùi thây trong biển cả), điều đó nói lên được sự cùng quẫn thất vọng của người dân đối với nền cai trị ở VN, đó thật sự là 1 sự mất máu (bleeding) rất lớn cho phe Việt tộc, cho lực lượng dân tộc chống xâm lăng về lâu về dài. Và như vậy là đã trúng thâm ý Tàu: là chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc, phá hoại tiềm lực kinh tế …Tàu còn xúi dục, yểm trọ Kmer Đỏ tàn sát người Việt và tấn công biên giới tây nam để khích VN phải xua quân qua Kam pu Chia, tốn người, hại của, mất uy tín đối với quôc tế. Vậy mà Tàu vẫn giả đò tức giận, lấy lý do VN xâm lăng Kam pu Chia, xua quân tấn công biên giới phía bắc, rõ ràng là ném đá dấu tay rồi lại thừa cơ để mượn cớ xâm lăng, cũng giống như trong lịch sử, Tàu luôn luôn nhân cơ hội nước ta suy yếu hoặc nội loạn để mà mượn cớ xâm lăng.
Cũng phải ghi nhận rằng cuộc tàn sát của Kmer Đỏ làm chết gần 2 triệu người Miên (21% dân số ) về bản chất cũng là 1 cuộc “cải cách” còn triệt để và đẫm máu hơn là Cải Cách Ruộng Đất ở VN, vốn là đòn độc hiểm của Tàu (Kmer đỏ là Mao-ít, rất tôn sùng Mao Trạch Đông) (*14), dùng người Miên giết người Miên để khống chế người Miên về lâu về dài, dùng Kmer Đỏ để răn đe, phá hoại Việt, giống như Tầu đang kề 1 lưỡi dao sẵn sang để đâm ngang hông Việt. Thảm họa diệt tộc của dân Miên trực tiếp là qua bàn tay Kmer đỏ, nhưng chính CSVN đã đưa Pon Pot, Iêng Sary và Kmer đỏ về Miên và giúp chúng lật đổ chế độ Lon Nol (15*). Do vậy, đây cũng đồng thời là âm mưu của Đảng CSVN, dùng Kmer đỏ để làm yếu dân Miên hầu thực hiện mộng Liên Bang Đông Dương.

Tóm lại Tàu muốn nuốt VN và Đông Nam Á thì đã phải chuẩn bị tình huống “tằm ăn dâu” (nuốt từ từ). Sau khi đã chuẩn bị từ năm 1927 với tay sai là Hồ chí Minh và Đảng CSVN, đến nay Tàu đã chiếm được các cao điểm quân sự ở biên giới phía Bắc (Ải Nam Quan, Đồi Lão Sơn …), làm chủ vùng biển VN, đóng quân trên Tây nguyên, lật đổ ảnh hưởng của VN tại Lào và Campuchia (16* ), bao vây VN trên bộ và ngoài biển, gài người nắm các chức vụ then chốt trong Bộ Chính trị CSVN và guồng máy an ninh & quốc phòng VN, tiêu diệt các lực lượng dân tộc, triệt hạ ý chí dân tộc, phá hoại kinh tế, văn hóa và xã hội VN thông qua nhà cầm quyền tay sai khiếp nhược (hèn với giặc, ác với dân), không bao Tàu sẽ có thể nuốt được miền Bắc, thành lập chính phủ tay sai (như Bắc Hàn).

Dĩ nhiên là trong khối quần chúng đông đảo, kể cả trong lực lượng vũ trang, nhất là quân đội, cũng còn nhiều người yêu nước, có tinh thần dân tộc mạnh, họ không thể chịu đựng được nỗi nhục mất nước, làm tay sai, làm nô lệ cho Tàu, họ sẽ tập họp lại thành thế lực chống đối đủ mạnh. Và vì mất chính nghĩa, chánh phủ tay sai của Tàu cũng sẽ bị suy yếu và chia rẽ, rốt cuộc VN sẽ lại bị tách ra làm 2 như tình thế trước 1954, phe chống Tàu sẽ rút về miền Nam, đảng Cộng Sản VN sẽ phải sụp đổ, vì đến lúc này con cờ “Đảng CS” hoặc “XHCN” sẽ hoàn toàn mất hiệu quả, trở thành lạc hậu và phản động, lúc đó là lúc sẽ nhiều nhân vật hoặc đảng chính trị với danh nghĩa phục quốc, chống cộng … xuất hiện để tranh chấp chính quyền miền Nam- Như vậy thì bàn cờ sẽ có tiềm năng quay lại cái thế tương tự thời 1945 với các đảng phái quốc gia và mặt trận Việt Minh, rồi thì sẽ tới thế cờ sau 1954 với Mặt Trận Giải phóng miền Nam- Mặc dù lịch sử diễn biến, nhưng đại thể vẫn sẽ là bổn cũ soạn lại. Do đó, những bàn tay lông lá cũ đã, đang và sẽ chuẩn bị những lá bài mới cho giai đoạn mới (từ 1975). Một cuộc “giải phóng miền Nam” nữa sẽ có thể lại được dàn dựng để gạn lọc cho hết những thành phần còn ý thức mạnh về độc lập dân tộc… cho đến khi toàn thể Đông Á trở thành Tàu hoặc phiên bang của Tàu.

Còn Mỹ thì sao? nếu VN mất vào tay Tàu thì Mỹ cũng đâu có thiệt gì đâu? Chiến lược lâu dài của Mỹ là giữ vững thế siêu cường số một- Chiến lược cốt lõi của Mỹ vẫn là bảo vệ và phát triển lợi nhuận các đại công ty tài phiệt và công kỹ nghệ- Đối với Mỹ, quyền lợi là trên hết, cho nên Mỹ vốn là cần Tàu hơn là cần VN. Thông qua nhà cầm quyền độc tài đảng trị CS Tàu, Mỹ không cần xâm lăng đất đai của Tàu cũng vẫn bóc lột được 1 tỷ rưỡi người Tàu-
Mỹ cũng chẳng sợ gì Tàu, nhưng sẽ không gây chiến để tiêu diệt Tàu, vì không có lợi- Mỹ đã thắng Nga thế nào thì cũng sẽ tính là về lâu dài sẽ thắng Tàu bằng cách tương tự, Mỹ sẽ làm Tàu phải phình to ra và tự nổ thành nhiều mảnh, y như Nga Xô Viết vậy, dù biết trước mà vẫn không tránh được…. Từ nay cho tới lúc đó, thì nếu Tàu mà ra mặt đụng độ với Mỹ, Mỹ chỉ cần xù nợ hoặc không mua hàng là Tàu sẽ gặp khó khăn rất lớn, có thể có nội loạn ngay nếu cả trăm triệu người thất nghiệp do cấm vận…. Dĩ nhiên Mỹ cũng sẽ gặp khó khăn kinh tế, vì đã có phần nào phụ thuộc vào hàng hóa rẻ tiền nhập từ Tàu. Vậy thì Mỹ cũng sẽ thỏa hiệp với Tàu để chia đôi VN giống như nước Cao ly (Hàn quốc)- Thế cờ xa sắp tới là cả 2 đều chuẩn bị thử sức nhau lâu dài ở miền Nam VN, ở biển Đông. Bọn họ đã và đang chuẩn bị rồi đó, vận mệnh dân ta nay rất là mong manh, nếu dân khí đã tuyệt, thì chỉ còn phú cho ông Trời thôi…. và nếu không phục hưng lên kịp, VN sẽ vẫn chỉ là 1 quân cờ, và vẫn còn là nơi chiến trường trắc nghiệm-

Sau 80 năm thuộc Pháp, với chính sách bóc lột kinh tế, chia để trị về chính trị (Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ với 3 chế độ cai trị khác nhau), Thực dân Pháp đã làm cho VN khá kiệt quệ và chia rẽ. Đến khi Mao nhờ viện trợ của CS Nga, đánh thắng Tưởng, nắm được chính quyền, thì Mao khởi đầu chiến lược thôn tính Đông Dương – Nếu Tưởng thắng, thì cũng sẽ làm y như vậy- Tàu nào cũng giống nhau- Sẽ rất là lạ nếu thực tế lịch sử lại không xảy ra như vậy- Mộng Đại Hán nằm sẵn trong đầu bất cứ anh Tàu nào- Do đó, dĩ nhiên là CS Tàu phải điều khiển cho được cuộc chiến Đông Dương theo sách lược đó. Vậy thì chiến tranh quốc cộng ở VN kể cả trận Điên Biên Phủ, và tất cả các chính sách kinh tế chính trị của CSVN kể cả cuộc Cải cách ruộng đất đẫm máu đều nằm trong âm mưu do Tàu xếp đặt để làm suy kiệt Việt Nam mọi mặt, nhất là về kinh tế (do chiến tranh tàn phá liên miên, và kinh tế kiểu XHCN phá sản), về văn hóa xã hội và tinh thần dân tộc (ý thức về nền độc lập dân tộc bị phá sản để xây dựng Thế giới đại đồng CSCN), đạo đức xã hội bị băng hoại, thế hệ trẻ bị đầu độc, ý chí đấu tranh bị mất định hướng, bị đàn áp hung bạo đến tê liệt và suy kiệt. Người dân sẽ chỉ còn biết an thân thủ phận lo sinh kế hoặc tranh nhau hưởng thụ nếu có điều kiện.

Một khi ý chí đấu tranh suy kiệt, tinh thần dân tộc sẽ bị lụn bại (dân khí tuyệt) sẽ rơi vào cái thế buộc phải lệ thuộc ngoại bang, đưa tới mất nước và bị đồng hoá y như dân Chiêm Thành và Chân Lạp trước đây vậy. Dân ta ở VN sẽ thành ra người Tàu gốc Việt, giống như Việt kiều chúng ta thua chạy ra nước ngoài thôi, chỉ vài ba thế hệ sau là thành Mỹ gốc Việt, Tây gốc Việt, đều thành con lai hết…. Rốt cuộc đó cũng là thể hiện quy luật vận động của lịch sử loài người: Di Dân và Đồng Hoá…….
Nguy cơ trở thành người Tàu gốc Việt hiện nay là rất lớn, nếu không huy động được toàn lực nhân dân trong nước, cộng thêm yểm trợ của các nước lân bang, thì ít nhất sẽ mất miền Bắc (nếu không để bị mất Tây Nguyên). Một bộ phận dân Việt nếu tiếp tục chạy thoát được sang các nước khác hoặc các nước Âu Mỹ, thì cũng sẽ là di dân, và vài thế hệ nữa thì cũng bị lai giống hoặc đồng hóa, không còn nói được tiếng Việt nữa.

Sự tồn tại của Việt tộc luôn luôn bị đe dọa bởi chủ nghĩa bá quyền Đại Hán. Ngày nay còn bị đồng thời đầu độc bởi Chủ Nghĩa Cộng Sản. Hậu quả là sức sống của dân tộc bị mòn mỏi cùng cực- Nếu không lật đổ được CNCS và bọn tay sai thân Tầu, thì cơ may tồn tại là rất ít. Trừ phi Tàu bị Mỹ “triệt buộc”, phải phình to, và tự nổ sớm, thì may ra đất nước ta và dân ta lại tồn tại được lâu lâu hơn chút nữa… mong thay !!!

Phạm Dzũng

———————————–

Ghi chú:

(*1) Dân khí: Nói như cụ Phan Chu Trinh, phải chấn hưng dân khí trước nhất: “Chấn dân khí, hưng dân trí, hựu dân sinh… ”- Dân Nhật định cư ở vùng hải đảo nghèo nàn tài nguyên mà vẫn trở thành Đại cường- Dân Do Thái trải qua vài ngàn năm bị mất nước và bị Đức QX tàn sát, nay tụ lại chỉ có chưa đầy 8 triệu người mà cũng là 1 cường quốc khoa học kỹ thuật (nhiều Nobel khoa học nhất thế giới) và quân sự (đánh thắng liên minh 9 nước Ả Rập chỉ trong 6 ngày)- Nước Hàn cũng bị chia đôi, miền Bắc nghèo đói, nhưng miền Nam đã trở thành cường quốc kinh tế cạnh tranh được với Nhật… là do yếu tố nào? Phải chăng là “dân khí” họ cường mãnh hơn dân Việt mình khi họ đoàn kết một lòng trong chiến tranh giữ nước, trong nỗ lực tăng gia sản xuất xây dựng kinh tế, đứng lên chống lại độc tài quân phiệt để xây dựng nền dân chủ pháp trị ?-
Ý thức vững vàng của thành phần ưu tú lãnh đạo một cộng đồng(hoặc Quốc gia) về sức mạnh của sự đoàn kết toàn dân cũng là đặc điểm của dân khí cường mãnh, thí dụ:1/-Ở nước ta,với Hội Nghị Diên Hồng, vua với dân đồng lòng chống quân Mông Cổ. Thời vua Quang Trung đem quân ra Bắc 2 lần để phù Lê diệt Trịnh và sau đó đại phá quân Thanh, quân miền nam không tàn sát dân, cũng không trả thù binh lính miền Bắc- 2/-Nước Mỹ sau cuộc Nội chiến Nam Bắc tàn khốc, phe miền Bắc thắng trận đã đối xử với phe miền Nam thua trận rất cao thượng, hoàn toàn không có sự kỳ thị hoặc trả thù, kẻ thua trận vẫn được kính trọng và vẫn được bình đẳng, coi như anh em, hoàn toàn không giống như ở VN sau năm 1975.
Sức mạnh của dân tộc (dân khí) là ở chỗ: ý thức kỷ luật, ý thức tập thể thể hiện qua ý thức đoàn kết dân tộc và độc lập dân tộc trên bình diện rộng, không chỉ thể hiện ở người lãnh tụ hoặc tập đoàn cầm quyền.

(*2) Chiếm Chiêm Thành: Khởi đầu với vua Lý Thánh Tông (1069), đến năm 1693 với chúa Nguyễn Phúc Chu, xóa sổ dân Chiêm Thành-
Chiếm Miên: Khởi đầu từ 1658, Chúa Hiền Vương Nguyễn Phúc Tần chiếm Biên Hòa.

(*3) AnDương Vương (Thục Phán), rồi đến Triệu Đà đều là người Hoa Nam-
Xem Lê văn Siêu, Việt Nam Văn Minh sử Cương, trg 36, NXB Thanh Niên 2004: Sáu trong 12 sứ quân thời sau vua Ngô Quyền là thổ phỉ bên Tàu chạy qua.

(*4 ) Người Hoa ở VN: http://www.viethoc.org/phorum/read.php?10,45688
Posted by Lê Bắc, June 08,2004
-Vào năm 1679 và 1680, khi nhà Thanh bình định được tỉnh Quảng Đông thì một số quan quân dân nhà Minh đã bỏ chạy ra nước ngoài.
-Ngoài 2 đợt di dân quan trọng đó, suốt thế kỷ 19 có nhiều người Hoa, theo tình hình xã hội, đã di dân tới Việt Nam và nhiều nước Đông Nam Á khác (cũng như một số theo đoàn mộ phu qua Hoa Kỳ)
-Khi Pháp chiếm được 6 tỉnh Nam Kỳ, vì nhu cầu đất rộng người thưa, tư bản Pháp đã chiêu mộ và khuyến khích người Hoa từ Trung Quốc và Singapore sang kinh doanh, khai thác.
– Chiến tranh Quốc Cộng ở Trung Hoa đã làm cho đất nước loạn lạc, và nhất là khi Trung Cộng chiếm toàn bộ Hoa Lục năm 1949, nhiều nhóm người Hoa cũng đã chạy trốn Cộng Sản và thiên cư sang Việt Nam (và nhiều nước Đông Nam Á khác.)
-Năm 1954, nhiều người Hoa ở Hà Nội, Hải Phòng đã di cư vào Nam
-Năm 1975-1979, với biến động ở Campuchea, nhiều người Hoa cũng đã chạy tỵ nạn sang sinh sống ở Việt Nam.
Nguồn gốc của người Hoa ở Việt Nam đa số có gốc tích từ các tỉnh duyên hải ở miền Nam Trung Quốc, chủ yếu là hai tỉnh Quảng Đông và Phúc Kiến. Khi sang nước ta, họ có khuynh hướng sống qui tụ thành bang hội theo nguồn gốc quê hương của họ.

(*5)Triệu Đà (207-137BC) nổi loạn chống Tần Thủy Hoàng, thua chạy về phương Nam, tiến chiếm Âu Lạc, xưng vương, đặt tên nước là Nam Việt, gồm Âu Lạc, Quảng Đông, Quảng Tây, đặt kinh đô ở Phiên Ngung thuộc tỉnh Quảng Đông (Xem Việt Nam Nước tôi, Phan Như Huyên, Garden Grove, CA, USA, 2000)

(*6) Xem Cát Kiếm Hùng, Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc, trang 10-11, Người dịch : Phong Đảo, NXB Van Hóa Thông Tin Hà Nội 2004.

(*7) Lý Đông A, Chu Tri Lục 3 Cương Lĩnh (1943). http://thangnghia.com/?p=43

(*8 ) Xem Đại Nghĩa: Hồ Chí Minh và Cải Cách Ruộng Đất.http://www.danchimviet.info/archives/35479
Ông Hoàng Tùng, nguyên Tổng Biên tập báo Nhân Dân (1954-1982) kể lại trong chuyện “Bí mật HCM” cho chúng ta thấy được sự nô lệ của ông Hồ và đảng Lao Động Việt Nam (tiền thân của đảng CSVN) như thế nào: “Mùa hè năm 1952 Mao Trạch Đông và Stalin gọi bác sang, nhất định bắt phải thực hiện CCRĐ. Sau thấy không thể từ chối được nữa, bác mới quyết định phải thực hiện CCRĐ…. Mục đích của họ không phải là CCRĐ mà là đánh vào đảng ta ….”
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, trả lời báo Quê Mẹ khi du lịch sang Pháp sau năm 1975, ông nói: “Trong lịch sử Việt Nam từ hồi lập quốc đến nay chưa có một cuộc thanh trừng giết dân nào khủng khiếp tàn bạo như cuộc CCRĐ. Hầu như mọi cuộc đấu tố đều có sự nhúng tay của cố vấn Trung cộng. Điều đó cho thấy chính quyền HCM lệ thuộc ngoại bang như thế nào”. (Người Việt ngày 7-9-2004)

(*9) Trận Tết Mậu Thân 1968- Về lực lượng CS tham gia: Xem Wikipedia:
Quân Giải phóng thật ra toàn là quân miền Bắc vào (220.000, riêng năm 1967 xâm nhập thêm 94,000 quân), còn địa phương (MTGPMN) chỉ có 57,000 và số nằm vùng, du kích, dân quân.
http://vi.wikipedia.org/wiki/Sự_kiện_Tết_Mậu_Thân#cite_ref-24 :
…“Năm 1967, hơn 94.000 cán bộ, chiến sĩ ở miền Bắc biên chế thành từng trung đoàn, sư đoàn bộ binh và binh chủng kỹ thuật bổ sung cho Trị – Thiên, Khu V, Tây Nguyên, Nam Bộ, nâng tổng số Quân giải phóng miền Nam lên 220.000 quân chủ lực và 57.000 quân địa phương (không kể dân quân, du kích, tự vệ) . . . . .

. . . . . Sau tổng tiến công Mậu Thân, vùng kiểm soát của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam bị thu hẹp. Quân Giải phóng bị đẩy ra xa và suy yếu trầm trọng: các đơn vị quân sự suy yếu, các lực lượng chính trị bị lộ và bị triệt phá gần hết, thương vong cao hơn hẳn các năm trước …..”

Tại sao CSVN lại để xảy ra một thất bại quân sự như vậy? Theo lý thuyết chiến tranh, chỉ khi chắc thắng thì mới tấn công; Đối với chiến tranh nhân dân, nếu không chắc thắng 10 phần thì không nổi dậy. Các chiến lược gia và tướng lãnh CS Bắc Việt vốn dày dạn chiến trận không thể nào không biết những điều này khi phát động Tổng tấn công- Nên chú ý thêm ở đây là Tổng tấn công- Tổng nổi dậy, có nghĩa là 2 mặt giáp công, nếu tấn công thất bại, thì nổi dậy cũng thất bại, và ngược lại nếu nổi dậy thất bại, thì tấn công cũng thất bại. Làm sao Đảng bộ ngoài Bắc lại không biết rằng lực lượng MTGPMN vốn chỉ là du kích, không thể thắng được quân đội VNCH có Mỹ yểm trợ đầy đủ? làm sao họ lại không biết rằng lúc đó Mỹ vẫn yểm trợ tối đa phi pháo cho VNCH, cho nên dù có thêm quân số do bộ đội ngoài Bắc xâm nhập cũng vẫn không đủ để chiếm ưu thế cần thiết quyết định cho chiến thắng? Rõ ràng đây là 1 trận đánh chỉ để thua, khi thua thì lực lượng chính có thể rút trở lại bưng biền, nhưng lực lượng địa phương (MTGPMN) do phải “tổng nổi dậy”nên đã phải lộ mặt ra hết, và bị tiêu diệt, như vậy là thực hiện được mục đích của miền Bắc là mượn tay địch để diệt kịp thời cái thế lực có thể tranh dành quyền lực sau này.
Những người miền Nam có con em theo du kích VC mà bị chết trong cuộc chiến Mậu Thân, những bộ đội “Sinh Bắc Tử Nam” đúng ra là, thay vì oán trách “Mỹ- Ngụy”, phải nên oán trách Đảng CSVN, và bọn CS Tầu mới đúng.

(*10) Ngộ độc chủ nghĩa CS= CNCS phá hủy văn hóa truyền thống và ý thức dân tộc, phá hủy nền tảng tư duy về đạo đức cá nhân, cũng phá hủy luôn cấu trúc kinh tế và xã hội do áp dụng triết lý bạo lực về giai cấp đấu tranh kiểu cuồng tín giáo điều, cộng với lý thuyết kinh tế mác xít với biện chứng không tưởng về Thế giới Đại Đồng Cộng Sản Chủ Nghĩa, biện chứng này tạo cho Đảng cầm quyền một thứ “Chính Nghiã”, dựa vào đó để che dấu bản chất xâm lược của nước lớn, và sự thần phục, lệ thuộc của Đảng cầm quyền ở nước nhỏ- Cho nên những thành phần tinh hoa của Đảng CSVN vốn được nể phục nhờ vào bộ máy tuyên truyền đánh bóng thành những người yêu nước, đấu tranh dành độc lập dân tộc, những người này sau khi nắm quyền cai trị, họ thất bại với mô hình kinh tế XHCN làm cho cả nước nghèo đói kiệt quệ, họ bắt chước Tàu, chuyển sang kinh tế thị trường nhưng vẫn độc quyền cai trị. Khi nền kinh tế bắt đầu phát triển, qua hệ thống bè cánh, họ đã bộc lộ bản chất kiêu mạn và tham tàn vô độ, điển hình của cái thời “tư bản hoang dã”. Lợi nhuận thu về do nắm độc quyền cai trị đã biến toàn bộ cán bộ cai trị các cấp biến chất thành 1 tập đoàn mafia, “tự thực dân” bóc lột chính nhân dân mình, và để bảo vệ quyền lợi của mình và tập đoàn, những nhà cai trị này sẽ sẵn sàng bám vào thứ “chính nghĩa Thế giới Đại Đồng CSCN” có sẵn để quy phục nước đàn anh (Tàu, hoặc Nga …) và đàn áp những người dân có tinh thần dân tộc chống xâm lược.
Độc tài sanh ra độc quyền và độc quyền sẽ phải sanh ra tham nhũng hệ thống và hủ hóa cá nhân, điều này có tính quy luật, như 1 hệ lụy của sự quy phục quyền và lợi, và đã từng xảy ra trong lịch sử các nước, điển hình như là dưới triều đại Sùng Chinh thời mạt Minh: Khi Lý Tự Thành đánh tới kinh đô, dân đói, quốc khố trống rỗng nên lính cũng đói và không được trả lương để nuôi vợ con, vua phải kêu gọi các quan bỏ tiền ra để nuôi quân, nhưng không ai chịu. Sau đó thành bị phá và vua Sùng Chinh treo cổ tự vẫn. Khi phá kho nhà các quan lớn, thì thấy nhà mỗi viên quan lớn đều có vàng bạc đồ quý chất đầy kho, tính ra gấp cả trăm lần công quỹ (Xem: Cát Kiếm Hùng- Bước thịnh suy của các triều đại phong kiến Trung Quốc- Tâp III, nhà Minh & Thanh, tr. 294- Bản dịch: Phong Đào, Nhà XB Văn Hóa Thông Tin, Hà Nội-2005).

(*11) Theo Trần Trung Đạo: Từ Buổi Chiều Trên Nghĩa Địa Hàng Dương,http://www.trantrungdao.com/?p=290)
Sự thật bị giấu kín ( 320 ngàn quân Trung Cộng từng tham gia chiến tranh Việt Nam)

Quân số Trung cộng tham gia chiến tranh Việt nam được tiết lộ trong những tài liệu trước đây:

Bên cạnh Liên-Xô, vào thời điểm 1967 ngoài hàng vạn tấn đạn dược, vũ khí, đã có 16 sư đoàn với 170 ngàn quân Trung Quốc tại miền Bắc Việt Nam để yểm trợ cho đảng Cộng sản Việt Nam nhưng đồng thời để bảo vệ vòng đai an ninh của Trung Quốc. Tội ác của đảng Cộng sản Trung Quốc đối với dân tộc Việt Nam, từ các tư tưởng độc hại đến võ khí giết người, từ cải cách ruộng đất đến đến Hoàng Sa, Trường Sa, từ chiến tranh biên giới đến trận chiến Lão Sơn, không thể viết hết trong một bài, trong một cuốn sách mà phải xây dựng một trung tâm dữ kiện.

(*12) Times, Sunday 13/6/197: Pentagon Papers- The secret war.
& Tài liệu giải mật của Tòa Bạch Ốc 14/6/2011, Văn Khố Quốc Gia (National Archives) của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ – http://www.archives.gov/research/pentagon-papers/

________________

Bài Đọc Quan Tâm

30.4.1975 – Ngày Tự Thú của csVN
30.4.1975 – Ngày Hận Thù của csVN
VNCH – Sau 30 năm tị nạn csVN
Chiến tranh nam bắc Mỹ
Ngô Đình – Hiểm Họa Xâm Lăng
Hồ Chí Minh – Tên Diệt Chủng thế kỷ 20
TT Phạm Văn Đồng – Tù Cải Tạo 30.4.1975
Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng
Hòa Giải – Hòa Hợp – Dân Tộc
Thanh Trừng – Nội Bộ Đảng csVN
Sách lược – Tàu Cộng diệt chủng tộc Việt

Advertisement

2 thoughts on “Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng (Đồng Hóa)

  1. Quyền Lật Đổ Chính Quyền
    Lê Dủ Chân
    May 21, 2013

    Nếu nói đến dân chủ hoặc dân quyền mà không nói đến QUYỀN LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN của dân thì đó là một thiếu sót sai lầm nghiêm trọng, bởi vì quyền lật đổ chính quyền là quyền lực chính trị cao nhất của người dân, được thực thi để thay đổi nhà cầm quyền với mục đích bảo vệ những quyền lợi tự nhiên cơ bản của mình khi những quyền này bị nhà cầm quyền xâm phạm hay tước đoạt.

    1. Nguồn gốc

    Ba yếu tố ắt có và đủ để thành lập một quốc gia là: DÂN, LÃNH THỔ VÀ CHÍNH QUYỀN, trong đó “DÂN” là yếu tố quyết định. Thật vậy nếu không có dân sẽ không có lãnh thổ, không cần chính quyền. Ngược lại nếu có dân, dân sẽ chiếm hữu lãnh thổ để sinh tồn và lập nên chính quyền để phục vụ cho mình.

    Quá trình lập quốc của các quốc gia trên thế giới, điển hình là sự ra đời quốc gia Israel của người Do Thái vào thế kỷ 20 sau hơn 2000 năm có dân nhưng không có lãnh thổ và chính quyền, đã chứng minh được luận điểm trên là đúng đắn.

    Từ đó có thể xác định được rằng quyền lật đổ chính quyền của người dân có ngay từ ngày đầu khi một quốc gia được thành lập và quyền này không những phải được công nhận như một quyền tự nhiên của người dân mà còn được xem như là một phương pháp tối ưu để xây dựng quốc gia mỗi ngày một giàu mạnh người dân mỗi ngày một hạnh phúc.

    Hiểu một cách đơn giản và thực tế thì chính quyền là một tổ chức do người dân của một nước lập nên, tổ chức này gồm một nhóm người, họ cũng là dân nhưng được đa số người dân khác tín nhiệm chọn ra để lãnh trách nhiệm điều hành xã hội phục vụ cộng đồng.

    Do vậy bản chất của chính quyền là phi giai cấp và phi thời gian, không lệ thuộc, không phục vụ cho một giai cấp đặc thù nào trong xã hội và chỉ tồn tại khi nó đáp ứng được nguyện vọng của những người tạo ra nó tức là dân.

    Một chính quyền không phục vụ cho người dân, ngược lại chỉ phục vụ cho chính bản thân những người cầm quyền, hoặc vì bất cứ lý do gì đã mất đi khả năng lãnh đạo làm cho đất nước suy vong, xã hội suy trầm, nhân dân đói khổ thì người dân phải hủy bỏ để lập nên một chính quyền khác.

    Quy luật này không những là quyền mà còn là trách nhiệm và bổn phận của người dân trong một nước, hoàn toàn không bị ràng buộc bởi hiến pháp và luật pháp hiện hành do nhà cầm quyền đương nhiệm đặt ra.

    Nhìn vào lịch sử Đông – Tây chúng ta thấy được rằng sự sụp đổ một triều đại, một chính phủ hay một chế độ đều phát xuất từ dân, quyền lực đó chính là quyền lật đổ chính quyền của dân.

    Tuy nhiên trong thời đại phong kiến cũng như trong cuộc cách mạng vô sản của người cộng sản, do trình độ chính trị của người dân chưa được khai phá, nhận thức về tự do, quyền làm chủ của dân còn bị hạn chế nên quyền này đã bị tư tưởng phong kiến và tà thuyết cộng sản lèo lái, sử dụng như một phương tiện phục vụ cho tham vọng riêng tư của bọn họ. Thế cho nên sau khi đạt được mục đích cướp chính quyền, thâu tóm quyền lực, hai tập đoàn này đã dùng hệ thống tư tưởng thần quyền hoang tưởng, lý thuyết giai cấp thống trị phản động kết hợp với bạo lực để vô hiệu hóa quyền lật đổ chính quyền của dân với mục đích kéo dài vĩnh viễn thời gian cai trị cho chế độ.

    Riêng tại các quốc gia có nền văn minh tiên tiến theo chế độ dân chủ, quyền lật đổ chính quyền của người dân đã được dân và nhà cầm quyền thể chế hóa và luật hóa ngay từ những ngày đầu thành lập chế độ qua các văn bản gốc như:

    – Bản Tuyên Ngôn Độc Lập Hoa Kỳ (The Unanimous Declaration of the Thirteen United States of America) ra đời ngày 4 tháng 7 năm 1776;

    – Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Pháp (Déclaration des droits de l’Homme et du citoyen) ngày 26 tháng 8 năm 1789;

    – Và sau khi thế chiến lần thứ hai kết thúc, đã được hầu hết các quốc gia trên thế giới công nhận qua bản Tuyên ngôn Quốc Tế Nhân Quyền (The Universal Declaration of Human Rights) tuyên bố ngày 10 tháng 12 năm 1948 tại Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc.

    2. Hình thức

    Tùy theo chế độ và mức độ ngoan cố của nhà cầm quyền, người dân các quốc gia trên thế giới lật đổ chính quyền, thay đổi chế độ bằng những hình thức sau:

    – Bầu cử:

    Tại các quốc gia dân chủ người dân thực thi quyền lật đổ chính quyền của mình một cách hòa bình và công khai, quyền này được cụ thể hóa minh bạch bằng luật ứng cử và bầu cử đúng theo hiến pháp của mỗi nước quy định.

    Ngược lại để lật đổ một chính phủ trong chế độ độc tài, thông thường người dân phải dùng các hình thức sau mới mong đặt được mục đích của mình:

    – Bất tuân dân sự:

    Henry David Thoreau (1817-1862) cho rằng người dân có bổn phận dân sự hành động theo lương tâm của chính mình để từ chối tuân theo luật pháp và chỉ thị của một chính quyền bất chính, bất công và sai lạc. Và nếu không khai trừ, giải thể được chế độ này thì ít ra cũng không a tòng, tương trợ hay gần gũi kẻ phạm pháp.

    Vào thế kỷ trước, bằng phương pháp biểu tình ôn hòa bất tuân dân sự, từ chối tuân thủ những luật lệ, chính sách, chủ trương, đường lối của chính phủ Anh mang tính bất công chống lại người dân và làm suy yếu đất nước, tẩy chay các sản phẩm, các cơ quan giáo dục và pháp tòa Anh cũng như từ chức không làm cho chính quyền, từ chối không đóng thuế và hủy bỏ những danh hiệu, huy chương của đế quốc Anh. Với con đường này Mohandas Karamchand Gandhi thường được gọi là Thánh Gandhi (1869-1948) đã dẫn dắt người dân Ấn Độ đến độc lập tự chủ.

    Cách Mạng Nhung Tiệp Khắc diễn ra từ ngày 16 tháng 11 năm 1989 đến ngày 29 tháng 12, 1989dẫn đến sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa tại nước này. Hai ngày sau khi cảnh sát đã đàn áp cuộc biểu tình ôn hòa của sinh viên tại thủ đô Praha, ngày 19 tháng 11 năm 1989, hàng loạt những cuộc biểu tình của người dân Tiệp Khắc đã diễn ra trên khắp đất nước, số lượng người tham gia biểu tình tại Praha có ngày lên đến nửa triệu, tiếp đó ngày 27 tháng 11, một cuộc đình công phản đối đồng loạt trên toàn quốc đã diễn ra trong hai giờ đồng hồ. Trước sức ép ngày càng càng lớn, vào ngày 28 tháng 11 đảng cộng sản Tiệp Khắc đã tuyên bố từ bỏ quyền lực và giải tán chế độ độc tài độc đảng đương quyền. Đến tháng 6 năm 1990, một cuộc bầu cử tự do, dân chủ, đa đảng đầu tiên kể từ năm 1946 đã được tổ chức để thành lập chính phủ mới mở ra kỷ nguyên tự do dân chủ cho người dân Tiệp Khắc.

    Từ năm 1987 cho tới 1991 tại Cộng Hòa Sô Viết Estonia nhân dân Estonia biểu tình tụ tập mỗi lúc cả ba trăm ngàn người tại công trường Tallinn, tung hô khẩu hiệu tranh đấu đòi quyền tự quyết, hát những bài quốc ca, dân ca từng bị Liên-Sô cấm đoán. Khi quân đội Liên-Sô đem xe tăng đến uy hiếp, dân chúng biểu tình lấy thân làm hàng rào chống đỡ, nhờ đó chính quyền Estonia kịp trở tay giải tán quốc hội và tuyên bố độc lập.

    Tại Nam Phi, với chủ trương bất tuân dân sự qua những cuộc biểu tình vĩ đại “Trong Mưa Tím” (Purple Rain Protest) và Diễn Bước Hòa Bình (Cape Town Peace March) Nelson Mandela và Tổng giám mục Desmond Tutu đã dẫn dắt nhân dân Nam Phi chấm dứt chế độ kỳ thị Apartheid năm 1994.

    Cuối năm 2004 tại Công Trường Độc Lập, thủ đô Kiev nước Ukraine gần triệu người biểu tình mặc toàn áo màu da cam, phản đối chính quyền bằng các hình thức biểu tình ngồi, đình công, bãi thị, đòi tự do dân chủ, xóa bỏ gian lận bầu cử v.v… Họ đã thành công trong công cuộc cải tổ sinh hoạt chính trị, xây dựng một xã hội dân sự, tự do, dân chủ cho đất nước này.

    – Đối đầu bất bạo động:

    Đây là hình thức đấu tranh đặt nền tảng trên quyền lực, ý chí và sự hy sinh của dân, không dùng vũ khí nhưng dùng số đông quần chúng làm sức mạnh nhằm đạt đến mục tiêu là lật đổ những chính quyền đi ngược lại nguyện vọng của mình. Bất bạo động không phải là không hành động mà chính là hành động nhưng không dùng bạo lực. Nó đòi hỏi sự kiên trì, quyết tâm cao độ và chính nghĩa để có được sự ủng hộ bền bỉ của đại đa số quần chúng.

    Từ việc đối đầu bất bạo động, quyền lực của nhà cầm quyền bị đặt vào vị trí thử thách, làm yếu đi sức mạnh của bạo lực đồng thời tăng sức mạnh cho dân cho đến khi bạo lực của nhà cầm quyền bị triệt tiêu chính quyền sẽ phải sụp đổ.

    Đối đầu bất bạo động gồm hàng loạt chuỗi đấu tranh bằng hình thức vận động nhân dân đồng loạt xuống đường biểu tình, đình công, bãi thị, bãi khóa… thể hiện ý chí phản đối, không tuân lệnh, không cộng tác, bất chấp các định chế của chế độ đương quyền.

    Công Đoàn Đoàn Kết là tổ chức then chốt trong việc lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa tại Ba Lan, được thành lập vào tháng 9 năm 1980 với chủ trương đình công, biểu tình đòi tăng lương, phản đối chính sách kinh tế, chính trị, xã hội của nhà nước trên khắp lãnh thổ Ba Lan. Phải mất đến 10 năm với cả ngàn cuộc đình công, biểu tình, 10.131 người bị bắt, 3.616 bị án tù, 9 chín công nhân bị bắn chết và nhiều người bị thương, người dân Ba Lan mới đạt được mục đích của mình là lật đổ chính quyền đương nhiệm thành lập chính quyền mới, tiến hành chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường tự do, đưa Ba Lan vượt qua những khó khăn bước đầu và dần dần trở thành một quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển cao.

    Cuối năm 2004, tại Công Trường Độc Lập, thủ đô Kiev nước Ukraine gần triệu người biểu tình mặc toàn áo màu da cam, phản đối chính quyền bằng các hình thức biểu tình ngồi, đình công, bãi thị, đòi tự do dân chủ, xóa bỏ gian lận bầu cử v.v… Họ đã thành công trong công cuộc cải tổ sinh hoạt chính trị, xây dựng một xã hội dân sự, tự do, dân chủ cho đất nước này.

    Vào đầu thế kỷ 21 người dân tại các nước Trung Đông và Bắc Phi đã kiên trì áp dụng hình thức đấu tranh bất bạo đông để lật đổ các chế độ độc tài lâu đời tại Tunisia, Egypt, Yemen, Sudan…

    Gần đây nhất nhân dân Miến Điện sau hơn 50 năm (1962 – 2012) bị cai trị dưới chế độ độc tài quân phiệt đã thành công trong nỗ lực chuyển hóa từ một chế độ độc tài quân phiệt sang chế độ tự do dân chủ. Từ cuộc nổi dậy ôn hòa 8888 chống lại chế độ nhà nước độc đảng được khởi đầu bởi sinh viên tại thành phố Ngưỡng Quảng vào ngày 8 tháng 8 năm 1988, mặc dầu bị đàn áp dã man nhưng từ đó về sau tinh thần này đã lây lan trên khắp đất nước với hàng trăm ngàn người biểu tình đòi cải tổ chính trị, kinh tế và xã hội…. Sau gần 25 năm kiên trì đấu tranh bất bạo động với hàng ngàn người thiệt mạng do sự đàn áp của quân đội, hàng chục ngàn người chịu cảnh tù đày mất mát, người dân Miễn Điện đã thức tỉnh được lương tri của tập đoàn lãnh đạo, làm cho họ chấp nhận thay đổi chế độ để xây dựng tự do dân chủ và kiến thiết đất nước.

    – Đối đầu bạo động:

    Đối với những chính quyền ù lỳ ngoan cố quyết tâm bám trụ quyền lực chống lại nguyện vọng chính đáng của người dân bằng hành động khủng bố và đàn áp đẫm máu, đưa đến một tình thế một mất một còn giữa hai phe, với tình huống này người dân bắt buộc phải khởi động một cuộc nổi dậy, hoặc tổng nổi dậy để lật đổ nhà cầm quyền dù phải dùng đến biện pháp đối đầu có vũ trang.

    Năm 1789 Nhân dân Pháp đã dùng những cuộc biểu tình bạo loạn trên toàn lãnh nước Pháp, phá ngục Bastille, giết vua Louis XVI và hoàng hậu Marie Antoinette để chấm dứt chế độ quân chủ chuyên chế lâu đời tại nước Pháp.

    Vào đầu thế kỷ 21 người dân Libya đã phải dùng hình thức vũ trang nổi dậy để lật đổ chế độ độc tài sắt máu của Muammar Al Gaddafi.

    Giữa tháng 2 năm 2011, các cuộc biểu tình ôn hòa bắt đầu nổ ra. Làn sóng biểu tình nhanh chóng lan đến thủ đô Tripoli. Chính quyền phản ứng bằng cách ra lệnh cho quân đội và cảnh sát bắn thẳng vào những người biểu tình. Hổn loạn và bạo động diễn ra khắp nước bắt buộc người dân phải xử dụng vũ khí và tổ chức thành đội ngũ để chống lại sự đàn áp tàn bạo của quân đội. Gaddafi thuê chiến binh ngoại quốc tàn sát người biểu tình và ra lệnh cho quân đội sử dụng xe tăng, đại bác, hỏa tiễn, máy bay tấn công quân nổi dậy, xử tử những người biểu tình đang nằm điều trị trong bệnh viện, các sĩ quan quân đội bắn bỏ những quân nhân nào từ chối bắn vào người biểu tình. Càng đàn áp sức kháng cự của nhân dân càng mãnh liệt và cuối cùng với sự hổ trợ của thế giới nhân dân Libya đã chiếm được thủ đô Tripoli, Gaddafi bị lật đổ và bị giết vào ngày 20 tháng 10 năm 2011, sau 42 năm cầm quyền.

    Syria là một quốc gia theo chế độ toàn trị do Đảng Baath nắm giữ quyền hành, Hiến pháp 1973 ban cho Tổng thống Assad quyền lực gần như tuyệt đối. Thủ tướng và nội các do Tổng Thống chỉ định mà không cần bất kỳ sự phê chuẩn nào. Bất kỳ ai muốn thành đạt trên con đường hoạn lộ đều phải thông qua Đảng và phải thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Đảng và Assad. Những công việc béo bở trong chính quyến thường được trao cho thành viên trong gia đình Tổng thống hoặc cho người trong nhóm thiểu số Alawite hay đồng hương với Tổng thống Assad. Chính quyền Assad giam giữ độc đoán, tra tấn dã man, thủ tiêu những người bất đồng chính kiến, kiểm duyệt các websites, cản trở các bloggers, áp đặt các lệnh cấm di chuyển, kiểm soát cư trú và hạn chế đi lại, thành lập Tòa án An ninh Nhà nước Tối cao (SSSC), là một tòa án đặc biệt tồn tại bên ngoài hệ thống pháp lý thông thường để xét xử những người bị cho là gây nguy hiểm tới chế độ.

    Ngày 26 tháng 01 năm 2011, hưởng ứng cuộc nổi dậy của các quốc gia trong vùng, dân chúng Syria xuống đường biểu tình đòi chính phủ cải cách chính trị, tôn trọng quyền công dân và bãi bỏ Luật Khẩn Cấp. Chính quyền thẳng tay đàn áp, hàng ngàn người bị bắt và một số người bị bắn chết ngay trong ngày đầu tiên. Để chống lại sự đàn áp của nhà cầm quyền, nhân dân Syria đã liên kết với binh lính đào ngũ thành lập những tổ chức phản kháng bằng vũ trang bởi vì họ biết rằng với chế độ độc tài Assad không thể lật đổ mà không có bạo lực và đổ máu. Do sự ngoan cố của chính quyền Assad, đến nay đã có ít nhất 70.000 người chết. Trong những ngày tới có thể dân Syria sẽ phải hy sinh nhiều hơn nữa nhưng có một đều chúng ta có thể khẳng định được là không sớm thì muộn chế độ độc tài Assad sẽ sụp đổ, Assad và đồng bọn phải đền tội và nhân dân Syria sẽ thành công trong sứ mạng lật đổ chính quyền phản động này.

    3. Kết luận cho Việt Nam

    Chế độ cộng sản tại Việt Nam như một phiên bản hoàn hảo của các chế độ độc tài trên thế giới gom lại. Con đẻ của nó, nhà nước Cọng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hậu thân của nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cọng Hòa, là một nhà nước độc tài toàn trị tồn tại lâu đời nhất nhì trên thế giới, tính đến nay đã hơn nữa thế kỷ (68 năm).

    Sự ra đời cũng như bản chất của nhà nước này là một nghịch lý đối với văn minh tiến bộ của loài người, nó không bắt nguồn từ dân mà do đảng cộng sản Việt Nam dựng lên, không phục vụ cho dân trung thành với tổ quốc mà phục vụ cho đảng trung thành với tư tường Marx-Lê-Mao, không tồn tại bằng thực lực và sự tín nhiệm của dân mà tồn tại bằng bạo lực và giả dối.

    Điều 4 trong bản hiến pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và các đều 88, 79 trong bộ luật hình sự của chế độ là những quy định phi nhân, phi pháp chống lại quyền Lật Đổ Chính Quyền là quyền lực chính đáng và cũng là trách nhiệm cao cả của người dân đối với quốc gia và dân tộc.

    Ngày nào nhà cầm quyền độc tài, độc đảng này còn tồn tại thì độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc và toàn vẹn lãnh thổ chỉ là những từ sáo rỗng. Để đạt được những ước mơ đó người dân Việt Nam không còn có lựa chọn nào khác ngoài việc thực thi quyền LẬT ĐỔ CHÍNH QUYỀN của mình như các dân tộc trên thế giới đã làm.

    Lê Dủ Chân

  2. Nói thật về chủ nghĩa cộng sản

    Tiến Sĩ Lee Edwards

    Phạm Nguyên Trường dịch

     ‘Cho đến nay, còn năm nước cộng sản. Với bốn nước là Lào, Việt Nam, Trung Quốc và Cuba, chúng ta có thể làm việc: nói về vi phạm nhân quyền và áp dụng những biện pháp trừng phạt kinh tế. Có thể trao giải thưởng cho các nhà hoạt động. Bắc Triều Tiên là chuyện khác, đấy là nhà nước toàn trị tách biệt hẳn với thế giới’-Lee Edwards

    Trong thời gian ở thăm Latvia, ông Lee Edwards, chủ tịch Quỹ tưởng niệm các nạn chân của chủ nghĩa cộng sản, đã dành cho tờ Latvijas Avizeb buổi phỏng vấn dưới đây. Xin nói thêm rằng tổ chứcThe Victims of Communism Memorial Foundation (Quỹ tưởng niệm các nạn chân của chủ nghĩa cộng sản), do ông lãnh đạo, đang quyên góp tiền để dựng ở Washington đài tưởng niệm các nạn nhân của ý thức hệ cộng sản.

    – Các ông có ý định xây dựng một đài tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản ở Washington. Tại sao hiện nay đây là công việc quan trọng?

    – Chúng ta có thể nói đến 100 triệu nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản trên thế giới. Đây là số liệu từ tác phẩm của sáu nhà trí thức Pháp, có tên là Chúa trời đã thua, do nhà xuất bản của Đại học Harvard ấn hành. Bức tường Berlin sụp đổ cách đây 20 năm, nhiều người nghĩ rằng chủ nghĩa cộng sản đã bị đánh bại, và chúng ta có thể chắc chắn rằng nó sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Nhưng, không được quên các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản. Năm 2007, chúng tôi đã khánh thành bức tượng tưởng niệm các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản tại Washington. Đây là hình ảnh của Nữ thần dân chủ – một bức tượng như thế đã từng đứng ở quảng trường Thiên An Môn ở Bắc Kinh (Trung Quốc). Chúng tôi đã tạo ra một bảo tàng ảo về các nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản, và vừa mới đây đã viết xong cuốn sách giáo khoa cho các trường trung học. Quỹ tưởng niệm các nạn chân của chủ nghĩa cộng sản đang hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu di sản, nghiên cứu quá khứ, hiện tại và giáo dục. Trên thế giới vẫn còn năm nước cộng sản, và sự áp bức của các chế độ này cũng vẫn khốc liệt như trước đây. Về bức tượng, phải nói rằng hàng năm các nhà ngoại giao của nhiều nước vẫn đến thăm, cả những người đã từng là nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản như người Trung Quốc, Việt Nam, Triều Tiên và Cuba nữa. Luật về tổ chức của chúng tôi được thông qua dưới trào của tổng thống Dân chủ, Bill Clinton; còn tượng đài khánh thành khi tổng thống là người thuộc đảng Cộng hòa, George Walker Bush, nắm quyền. Một cách nữa để chúng ta tưởng nhớ đến tác hại của chủ nghĩa cộng sản là huy chương Truman – Reagan, tặng cho những người có thành tích trong sự nghiệp chống cộng. Tên của huy chương có ý nghĩa biểu tượng vì chiến tranh lạnh bắt đầu dưới trào đảng viên Dân chủ Harry Truman, còn Ronald Reagan, đảng viên Cộng hòa, đã làm được rất nhiều trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản. Giải được trao lần đầu tiên năm 1999, và một trong những người nhận đầu tiên là nhà lãnh đạo phong trào Sąjūdis, đòi độc lập cho Litva, là ông Vytautas Landsbergis.

    – Điều gì làm cho các nước vùng Baltic trở thành đặc biệt, nhất là trong bối cảnh của quá khứ cộng sản?

    – Hoa Kỳ đã có mối liên hệ đặc biệt với các nước vùng Baltic, khi Liên Xô chiếm những nước này, chúng tôi không công nhận việc chiếm đóng và sáp nhập đó. Chính phủ Mỹ đã đưa ra tuyên bố, gọi là tuyên bố Sumner Welles. Trong bảo tàng, chúng tôi phải nói với mọi người những câu chuyện dễ hiểu, và đối với các nước vùng Baltic thì đấy là phong trào Cách mạng hát và Con đường Baltic. Tôi đã đến thăm Bảo tàng Chiếm đóng ở Riga –  Ông Nollendorfs đã làm được một công việc tuyệt vời và chúng tôi cũng sẽ làm như vậy, chúng tôi được bảo tàng của các bạn khích lệ rất nhiều. Sẽ có những cuộc triển lãm dành cho từng nước, thí dụ như Nga, Trung Quốc, sẽ một cuộc triển lãm đặc biệt dành cho các nước vùng Baltic. Ngoài ra còn có một phòng dành tưởng niệm những anh hùng chống cộng nữa. Chúng tôi có thể dựng trong bảo tàng một trại tù (Gulag) với những chiếc giường gỗ, và khi có người vào thì nhiệt độ sẽ tự động giảm xuống. Chúng tôi muốn trưng bày cả những toa tầu dùng để trục xuất người tới Siberia. Chúng tôi cũng muốn đặt một tháp canh như trên Bức tường Berlin nữa.

    – Xây bảo tàng như vậy thì cần bao nhiêu tiền và kiếm ở đâu?

    – Theo luật pháp Hoa Kỳ, chúng ta không thể yêu cầu nhà nước tài trợ cho đài tưởng niệm đó. Đài tưởng niệm các nạn nhân của vụ diệt chủng người Do Thái (Holocaust) ở Washington cũng được xây dựng bằng nguồn vốn tư nhân. Vì vậy, chúng tôi hy vọng sẽ được các tổ chức xã hội hỗ trợ. Có thể chúng tôi sẽ yêu cầu chính phủ Mỹ hỗ trợ địa điểm đặt đài tưởng niệm, cũng như thu hút tài trợ từ nước ngoài. Hungary đã trích ra một triệu, chúng tôi sẽ sử dụng để tạo ra một nhóm công tác và cho chiến dịch quyên góp. Cần tổng cộng 100 triệu USD, một nửa làm bảo tàng, một nửa cho tổ chức làm công việc giáo dục. Mục tiêu của chúng tôi là bắt đầu xây dựng vào năm 2017, kỷ niệm 100 năm cuộc Cách mạng Bolshevik ở Nga.

    – Khổ đau có thể được đo không chỉ bằng số nạn nhân, mà còn có thể đo bằng kinh tế và xã hội …

    – Chủ nghĩa cộng sản là ngụy khoa học, được ngụy trang như một hệ thống kinh tế và được thực hiện bằng lực lượng võ trang. Nó được xây dựng trên nền cát ướt. Chủ nghĩa cộng sản đã gây ra những hậu quả về chính trị, kinh tế và chiến lược. Không có cộng sản thì chúng tôi đã không có các cuộc chiến tranh Việt Nam và Triều Tiên rồi. Nếu năm 1939 không có Hiệp ước Molotov- Ribbentrop thì đã không có Chiến tranh thế giới II. Chúng ta đang chứng kiến hậu quả kinh tế trong các nước vùng Baltic và Trung Âu – họ đã bị chủ nghĩa cộng sản hành hạ suốt mấy thập kỉ. Trong khi đó, Tây Âu kinh tế phát triển tốt hơn. Tất cả những người sống trong thế kỷ XX đều khổ vì chủ nghĩa cộng sản, và chúng ta phải dạy cho mọi người như thế.

    – Tại Latvia, các nhà khoa học đã tính được những thiệt hại do Liên Xô gây ra trong thời kì chiếm đóng. Có nên yêu cầu Nga bồi thường không?

    – Tôi không bình luận về công việc nội bộ của Latvia, đây là vấn đề của nền chính trị địa phương.

    – Có thể coi chủ nghĩa phát xít và chủ nghĩa cộng sản là như nhau không?

    – Holocaust là độc ác nhất. Chủ nghĩa cộng sản – cũng ác, nhưng chủ nghĩa phát xít là sự độc ác đặc biệt, không thể nào diễn tả nổi. Tôi xin lưu ý rằng Nghị viện châu Âu đã chuẩn bị một nghị quyết bày tỏ quan điểm chính trị cả về chủ nghĩa phát xít lẫn chủ nghĩa cộng sản.

    – Ở Latvia, giáo viên các trường dành cho học sinh nói tiếng Nga đưa trẻ em đến cái gọi là Tượng đài Chiến thắng và kể cho chúng nghe phiên bản của mình về lịch sử. Giải quyết vấn đề này như thế nào?

    – Trong chế độ dân chủ, không thể cấm người khác nói; nhưng cùng với quyền nói, còn có trách nhiệm nói sự thật nữa. Bộ Giáo dục, Bộ Quốc phòng và các giáo viên phải làm chuyện này. Nói rằng Latvia tự nguyện tham gia Liên Xô là không đúng. Những thứ tôi nhìn thấy trong bảo tàng chiếm đóng là đúng.

    – Người Mỹ đương đại theo ông là như thế nào, họ có hiểu về chủ nghĩa cộng sản và di sản của hệ tư tưởng của nó không?

    – Không phải tất cả người Mỹ đều biết chuyện đó. Khi chúng tôi viết sách cho nhà trường, bao gồm chủ nghĩa cộng sản của Marx, Mao và cho đến ngày nay, chúng tôi gửi cho giáo viên khắp cả nước. Họ cảm thấy thú vị. Cần dạy không chỉ học sinh về những vấn đề của chủ nghĩa cộng sản, mà còn phải dạy cả giáo viên nữa.

    – Ông cho rằng ai là những người anh hùng trong cuộc chiến chống lại chủ nghĩa cộng sản?

    – Đó là Vaclav Havel, Lech Walesa, Andrei Sakharov, Đức Giáo hoàng Gioan Phaolô II – đấy là bốn chiến sĩ tuyệt vời, nhưng còn nhiều người khác nữa.

    – Việc bổ nhiệm Karol Wojtyla làm Giáo Hoàng có phải là bước đi mang tính chiến thuật của Vatican trong cuộc chiến chống chủ nghĩa cộng sản hay không?

    – Ngài là một linh mục và hồng y sống dưới chế độ cộng sản, và đã trải nghiệm tất cả ngay trên cơ thể của mình. Chuyến đi đầu tiên của Ngài tới Ba Lan sau khi trở thành Giáo Hoàng là có tính biểu tượng, trong thời gian đó Ngài nhấn mạnh: “Đừng sợ.” Câu nói đó đã khuyến khích mọi người, phong trào “Đoàn kết” được thành lập. Ba Lan trở thành tấm gương. Âm mưu ám sát Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II cho thấy ảnh hưởng chính trị của Ngài lớn đến mức nào.

    – Thách thức đối với chủ nghĩa cộng sản hiện nay là gì?

    – Cho đến nay, còn năm nước cộng sản. Với bốn nước là Lào, Việt Nam, Trung Quốc và Cuba, chúng ta có thể làm việc: nói về vi phạm nhân quyền và áp dụng những biện pháp trừng phạt kinh tế. Có thể trao giải thưởng cho các nhà hoạt động. Bắc Triều Tiên là chuyện khác, đấy là nhà nước toàn trị tách biệt hẳn với thế giới. Thách thức lớn nhất hiện nay là giáo dục. Nhờ công nghệ hiện đại, nói sự thật dễ dàng hơn trước rất nhiều. Trang web của chúng tôi có hàng ngàn người đọc, trong đó có người Trung Quốc, người Việt Nam và người Cuba. Ngay cả Trung Quốc, với 80 triệu đảng viên, cũng không thể có ảnh hưởng tới toàn bộ dân số là 1,3 tỷ người. Tự do sẽ vượt qua tất cả.

    Cuộc trò chuyện do nhà báo Ģirts Vikmanis thực hiện

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s