Cựu Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu,
Trả lời phỏng vấn của Spiegel năm 1979
Trả lời phỏng vấn của Spiegel năm 1979
Phạm Thị Hoài – dịch
Spiegel: Thưa ông Thiệu, từ 1968 đến 1973 Hoa Kỳ đã nỗ lực thương lượng hòa bình cho Việt Nam. Trong cuốn hồi ký của mình, ông Henry Kissinger, trưởng phái đoàn đàm phán Hoa Kỳ đã dùng nhiều trang để miêu tả việc ông, Tổng thống Việt Nam Cộng hòa, đã chống lại những nỗ lực nhằm đem lại hòa bình cho một cuộc chiến đã kéo dài nhiều năm, với hàng triệu nạn nhân và dường như là một cuộc chiến để “bóp nát trái tim Hoa Kỳ”. Vì sao ông lại cản trở như vậy?
Nguyễn Văn Thiệu: Nói thế là tuyệt đối vô nghĩa. Nếu tôi cản trở thì đã không có Hiệp định Hòa bình năm 1973 – mặc dù, như ai cũng biết, đó không phải là một nền hòa bình tốt đẹp; hậu quả của nó ở Việt Nam là chứng chỉ rõ ràng nhất. Kissinger đại diện cho chính sách và lợi ích của chính phủ Mỹ. Là Tổng thống Nam Việt Nam, bổn phận của tôi là bảo vệ những lợi ích sống còn của đất nước tôi.
Tôi đã nhiều lần chỉ ra cho Tổng thống Nixon và TS Kissinger rằng, đối với một cường quốc như Hoa Kỳ thì việc từ bỏ một số vị trí không mấy quan trọng ở một quốc gia bé nhỏ như Nam Việt Nam không có gì đáng kể. Nhưng với chúng tôi, đó là vấn đề sinh tử của cả một dân tộc.
Spiegel: Kissinger không phủ nhận rằng cuối cùng ông cũng đồng ý. Nhưng ông ấy cũng nói rằng phải đàm phán lâu như vậy vì ông cản trở nhiều, rằng ông đồng ý với các đề xuất của Mỹ chỉ vì ông chắc mẩm rằng đằng nào thì Hà Nội cũng sẽ bác bỏ.
Nguyễn Văn Thiệu: Không đúng như vậy. Để chấm dứt một cuộc chiến tranh đã kéo dài gần 30 năm, người ta cần nhiều thời gian hơn là hai, ba ngày hay hai, ba tháng. Tôi hiểu rõ rằng đối với người Mỹ đã đến giúp chúng tôi, đây là cuộc chiến dài nhất trong lịch sử của họ. Có lẽ vì thế mà họ vội vã như vậy. Nhưng điều chúng tôi cần là một nền hòa bình lâu dài.
Spiegel: Kissinger có ý cho rằng ông không thực sự muốn ký kết một thỏa thuận về hòa bình, đúng ra ông ngầm mong phía miền Bắc cũng sẽ cứng đầu như ông. Kissinger viết rằng ông đồng ý với nhiều đề xuất từ phía Mỹ – trong tinh thần sẵn sàng không tuân thủ, chỉ vì trong thâm tâm ông không tin rằng hòa bình sẽ được ký kết. Có phải là trong khi đàm phán, ông đã bịp, với hy vọng là sẽ không bao giờ phải ngửa bài lên?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Sao lại có thể nói là một dân tộc đã chịu đựng bao nhiêu đau khổ suốt 30 năm lại muốn kéo dài cuộc chiến? Kissinger muốn xúc tiến thật nhanh mọi việc để Mỹ có thể rút quân và tù binh Mỹ được thả. Mà có lẽ mục đích của chính phủ Mỹ cũng là cao chạy xa bay. Họ thì có thể bỏ chạy. Nhưng chúng tôi thì phải ở lại Nam Việt Nam.
Chúng tôi có quyền chính đáng để đòi hỏi một hiệp định hòa bình toàn diện. Không phải là vài ba năm hòa bình, rồi sau đó lại 30 năm chiến tranh.

Nguyễn Văn Thiệu và Henry Kissinger

Nguyễn Văn Thiệu và Richard Nixon tại cuộc họp ở Midway 1969
Spiegel: Vậy tại sao ông lại đi trước cả người Mỹ và tự đề nghị Hoa Kỳ rút quân trong cuộc họp tại đảo Midway ở Thái Bình Dương tháng Sáu 1969, theo tường thuật của Kissinger?
Nguyễn Văn Thiệu: Trước khi họp ở Midway, việc chính phủ Mỹ dự định rút quân đã không còn là điều bí mật. Cho phép tôi nhắc để các ông nhớ lại, tin tức về việc Mỹ sẽ rút một số quân đã loan khắp thế giới, trước cuộc họp ở Midway. Vì sao? Theo tôi, chính phủ Mỹ muốn thả bóng thăm dò, tiết lộ thông tin trước cho báo chí và đẩy chúng tôi vào sự đã rồi.
Spiegel: Tức là ông đã nắm được tình hình?
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng thế. Cuộc họp ở Midway nhằm hai mục đích. Thứ nhất, cho hai vị tân tổng thống cơ hội làm quen và bàn về đề tài Việt Nam. Điểm thứ hai đã vạch rất rõ là bàn về việc rút những toán quân Mỹ đầu tiên. Tôi đã không hình dung sai điều gì và đã làm chủ tình thế. Không có gì phải lo lắng, và tôi đã rất vững tâm.
Spiegel: Khi đề xuất Mỹ rút quân, ông có thật sự tin rằng Nam Việt Nam có thể chiến đấu một mình và cuối cùng sẽ chiến thắng trong một cuộc chiến mà hơn 540.000 lính Mỹ cùng toàn bộ guồng máy quân sự khổng lồ của Hoa Kỳ không thắng nổi không? Chuyện đó khó tin lắm.
Nguyễn Văn Thiệu: Không, đề xuất đó không phải của tôi. Tôi chỉ chấp thuận. Tôi chấp thuận đợt rút quân đầu tiên của Mỹ, vì Tổng thống Nixon bảo tôi là ông ấy gặp khó khăn trong đối nội và việc rút quân chỉ mang tính tượng trưng. Ông ấy cần sự ủng hộ của dư luận và của Quốc hội. Nhưng tôi cũng bảo ông ấy rằng: Ông phải chắc chắn rằng Hà Nội không coi việc bắt đầu rút quân đó là dấu hiệu suy yếu của Hoa Kỳ.
Spiegel: Và ông không nghĩ đó là khởi đầu của việc rút quân toàn bộ?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi đã hình dung được rằng, đó là bước đầu tiên để cắt giảm quân số. Nhưng không bao giờ tôi có thể nghĩ Mỹ sẽ rút hẳn và bỏ rơi Nam Việt Nam. Tôi đã trình bày với Tổng thống Nixon rằng việc cắt giảm quân số sẽ phải tiến hành từng bước, như khả năng chiến đấu và việc tiếp tục củng cố Quân lực Việt Nam Cộng hòa cho phép – tương ứng với những viện trợ quân sự và kinh tế có thể giúp Nam Việt Nam tự đứng trên đôi chân của mình.
Quan trọng hơn, tôi đã bảo ông ấy phải yêu cầu Hà Nội có một hành động tương ứng đáp lại. Phía Mỹ đồng ý với tôi ở mọi điểm; về một sự rút quân từng bước và của cả hai phía…
Spiegel: … và mang tính tượng trưng?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi hiểu rõ rằng cuộc chiến ở Việt Nam cũng là một vấn đề đối nội của Hoa Kỳ. Và Tổng thống Nixon giải thích rằng ông ấy cần một cử chỉ tượng trưng để giải quyết vấn đề đó. Trước đó một tuần tôi đến Seoul và Đài Loan, tôi đã nói với Tổng thống Park Chung Hee và Tổng thống Tưởng Giới Thạch rằng tôi hy vọng việc rút quân sắp bàn với Tổng thống Nixon ở Midway chỉ là một sự cắt giảm quân số mang tính tượng trưng. Song tôi cũng lưu ý rằng nếu Hoa Kỳ muốn rút hẳn thì chúng tôi cũng không thể ngăn cản. Vậy thì đề nghị họ rút quân từng bước, đồng thời viện trợ để củng cố một quân đội Nam Việt Nam hùng mạnh và hiện đại, có thể thay thế người Mỹ, sẽ là hợp lý hơn. Không bao giờ tôi đặt giả thiết là lính Mỹ sẽ ở lại Việt Nam vĩnh viễn.
Spiegel: Mỹ vẫn đóng quân ở Hàn Quốc và Tây Đức mà.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng chúng tôi là một dân tộc rất kiêu hãnh. Chúng tôi bảo họ rằng, chúng tôi cần vũ khí và viện trợ, nhưng nhiệt huyết và tính mạng thì chúng tôi không thiếu.
Spiegel: Ông đánh giá thế nào về tình thế của ông khi ấy? Vài tháng trước đó, Bộ trưởng Quốc phòng Mỹ Melvin Laird vừa đưa ra một khái niệm mới: “Việt Nam hóa chiến tranh”. Trước đây người Mỹ chỉ nói đến việc “phi Mỹ hóa” cuộc chiến. Cái khái niệm mới ấy đã thể hiện rõ dự định rút khá nhanh của người Mỹ rồi, đúng không?
Nguyễn Văn Thiệu: Khi đến Sài Gòn vào tháng Bảy 1969, ông Nixon đã nhắc lại rằng ông ấy cần được sự hậu thuẫn của dư luận trong nước Mỹ. Tôi hiểu ông ấy. Nhưng ông ấy không hề tuyên bố rằng việc rút quân là một lịch trình mang tính hệ thống do sáng kiến của Mỹ. Ông ấy chỉ nói với tôi về những khó khăn trong nước, ở Mỹ, và đề nghị tôi giúp. Ông ấy bảo: “Hãy giúp chúng tôi giúp ông.” Tôi đáp: “Tôi giúp ông giúp chúng tôi.” Trong lần họp mặt đó, chúng tôi lại tiếp tục bàn về việc rút quân từng bước.
Spiegel: Nhưng không đưa ra một lịch trình cụ thể?
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Và ông Nixon lại hứa rằng việc rút quân của Mỹ sẽ phải đi đôi với những hành động tương ứng của Bắc Việt và phải phù hợp với khả năng phòng thủ của Nam Việt Nam cũng như phải phù hợp với việc Mỹ tiếp tục viện trợ quân sự và kinh tế cho Nam Việt Nam.
Spiegel: Ở thời điểm đó ông có nhận ra rằng nếu thấy cần thì Mỹ cũng sẽ sẵn sàng đơn phương rút quân không?
Nguyễn Văn Thiệu: Có, tôi đã ngờ. Nhưng lúc đó tôi vẫn rất vững tâm và tin tưởng vào đồng minh lớn của chúng tôi.
Spiegel: Có lẽ ông tin thế là phải. Cuốn hồi ký của Kissinger cho thấy khá rõ rằng chính phủ Nixon không thể dễ dàng “đình chỉ một dự án liên quan đến hai chính phủ, năm quốc gia đồng minh và đã khiến 31,000 người Mỹ phải bỏ mạng, như thể ta đơn giản chuyển sang một kênh TV khác.”
Rõ ràng là người Mỹ muốn thoát khỏi Việt Nam bằng con đường đàm phán. Chỉ trong trường hợp cần thiết họ mới muốn đơn phương rút quân. Ông có đưa ra yêu sách nào liên quan đến những cuộc thương lượng giữa Washington và Hà Nội không?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chán ngấy chiến tranh và quyết tâm chấm dứt nó qua đàm phán. Chúng tôi yêu cầu những kẻ xâm lăng đã tràn vào đất nước của chúng tôi phải rút đi. Tất cả chỉ có vậy.
Spiegel: Ông đã oán trách rằng sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam năm 1975 chủ yếu là do sau Hiệp định Paris, miền Bắc vẫn được phép đóng quân tại miền Nam. Ông khẳng định rằng mình chỉ chấp nhận sự hiện diện đó của miền Bắc trong quá trình đàm phán, còn sau khi ký kết thì Hà Nội phải rút quân. Nhưng Kissinger lại khẳng định trong hồi ký rằng ông thừa biết việc Hà Nội sẽ tiếp tục trụ lại ở miền Nam, và cho đến tận tháng Mười 1972 ông cũng không hề phản đối những đề xuất của phía Mỹ liên quan đến điểm này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đó là một lời nói dối hết sức vô giáo dục của Kissinger, rằng tôi chấp thuận cho quân đội Bắc Việt ở lại miền Nam. Nếu ngay từ đầu tôi đã chấp thuận như Kissinger nói thì lúc ông ấy cho tôi xem bản dự thảo, trong đó không có điều khoản nào về việc rút quân của Bắc Việt, tôi đã chẳng phản đối quyết liệt như thế.
Điểm then chốt nhất mà tôi dốc sức bảo vệ, từ đầu cho đến khi kết thúc đàm phán, chính là yêu cầu Hà Nội phải rút quân. Tôi đã tuyên bố rõ với Kissinger là nếu không đạt được điều đó thì không có ký kết.
Sau nhiều ngày tranh luận gay gắt, cuối cùng ông ta bảo: “Thưa Tổng thống, điều đó là không thể được. Nếu được thì tôi đã làm rồi. Vấn đề này đã đặt ra ba năm trước, nhưng phía Liên Xô không chấp nhận.” Tôi hiểu ra rằng chính phủ Mỹ đã nhượng bộ trước yêu sách của Liên Xô, và đó là nỗi thất vọng lớn nhất của tôi.
Spiegel: Có lẽ Liên Xô không thể làm khác, vì Hà Nội không chấp nhận coi Nam Việt Nam là một quốc gia khác, và một thời gian dài họ còn phủ nhận việc họ đã đưa quân đội chính quy vào miền Nam.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi đã chiến đấu hơn 20 năm và học được rằng, đừng bao giờ tin lời Nga Xô và Hà Nội. Bắc Việt đóng quân ở cả Lào, Campuchia và Nam Việt Nam, tôi tin rằng một người mù cũng nhìn ra điều đó. Muốn chấm dứt chiến tranh thì chúng ta phải nhìn vào hiện thực chứ không thể chỉ nghe lời kẻ địch.
Spiegel: Ông có lập luận như thế với Kissinger không?
Nguyễn Văn Thiệu: Tất nhiên, và với cả Tướng Haig nữa. Tôi bảo ông ấy thế này: “Ông Haig, ông là tướng, tôi là tướng. Ông có biết một hiệp định hòa bình nào trong lịch sử lại cho phép kẻ xâm lăng tiếp tục đóng quân tại lãnh thổ mà nó xâm lược không? Ông có cho phép Liên Xô vào Hoa Kỳ đóng quân rồi tuyên bố rằng ông đã ký kết thành công một hiệp định hòa bình với Liên Xô không?”
Spiegel: Ông ấy trả lời sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Ông ấy không trả lời được. Mà trả lời thế nào cơ chứ, chuyện đó hoàn toàn vô lý. Còn gì mà nói nữa.
Spiegel: Nhưng Kissinger thì có câu trả lời trong hồi ký. Ông ấy viết rằng khó mà bắt Hà Nội rút quân, vì họ hoàn toàn không sẵn sàng từ bỏ trên bàn đàm phán những thứ mà họ không mất trên chiến trường. Nhưng ông ấy cũng nói rằng trong Hiệp định Paris có một điều khoản không cho phép xâm lấn. Ông ấy đi đến kết luận rằng “lực lượng miền Bắc sẽ tự nhiên tiêu hao sinh lực và dần dần biến mất.”
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi thấy chính phủ Mỹ và đặc biệt là TS Kissinger không hề rút ra được bài học nào khi phải đàm phán với cộng sản, sau những kinh nghiệm đau thương năm 1954 giữa Pháp và cộng sản Việt Nam và từ Chiến tranh Triều Tiên. Họ cũng không học được gì từ những cuộc đàm phán về Lào và Campuchia và cũng không nắm bắt được là nên xử sự thế nào với cộng sản và cần phải hiểu chiến lược và chiến thuật của cộng sản ra sao.
Tức là ta lại phải trở về với vấn đề rằng, vì sao TS Kissinger, người đại diện cho một quốc gia lớn và tự cho mình là nhà thương thuyết giỏi giang nhất, lại có thể tin rằng quân Bắc Việt đóng tại miền Nam sẽ không xâm lấn. Sao ông ấy có thể tin như vậy cơ chứ?
Ông ấy đủ sức kiểm soát từng tấc đất trên biên giới của Campuchia, và của Lào, và của Nam Việt Nam à? Dù có cả triệu nhân viên quốc tế giám sát, chúng tôi cũng không bao giờ có thể khẳng định là đã có đủ bằng chứng rằng không có xâm lấn. Sao ông ấy lại có thể tin những gì Bắc Việt nói. Ông ấy có thể tin lời cộng sản, nhưng chúng tôi thì không. Vì thế mà tôi đã cương quyết đòi Bắc Việt phải rút quân. Nếu họ thực sự muốn hòa bình thì họ ở lại miền Nam làm gì?
Spiegel: Vậy Kissinger nói sao?
Nguyễn Văn Thiệu: Còn nói gì được nữa? Ông ấy và chính phủ Mỹ chỉ muốn chính xác có một điều: rút khỏi Việt Nam càng sớm càng tốt và đảm bảo việc trao trả tù binh Mỹ. Họ bảo chúng tôi là họ mong muốn một giải pháp trong danh dự, nhưng sự thực thì họ chỉ muốn bỏ của chạy lấy người. Nhưng họ lại không muốn bị người Việt và cả thế giới kết tội là đã bỏ rơi chúng tôi. Đó là thế kẹt của họ.
Spiegel: Kissinger viết rằng, ngay sau Chiến dịch Xuân-Hè 1972 của Hà Nội, các bên dường như đã đổi vai. Hà Nội đột nhiên muốn đàm phán trở lại, còn Sài Gòn thì muốn đánh cho đến khi giành toàn thắng.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn vô nghĩa! Ông TS Kissinger hiểu thế nào là chiến thắng? Bắc Việt đã đem chiến tranh vào miền Nam. Chúng tôi yêu cầu họ phải rút quân. Thế là chiến thắng hay sao? Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt tự coi mình là tù binh của miền Nam. Tôi chưa bao giờ yêu cầu Bắc Việt bồi thường cho tổn thất chiến tranh. Tôi chưa bao giờ đòi hỏi Bắc Việt giao nộp lãnh thổ. Tôi chưa bao giờ đòi có chân trong chính phủ ở Hà Nội. Vậy ông Kissinger hiểu thế nào về chiến thắng và toàn thắng?
Spiegel: Về vấn đề rút quân của miền Bắc, 31 tháng Năm 1971 là một ngày quan trọng. Kissinger cho biết là khi đó, trong các cuộc họp kín, Mỹ đã đưa ra yêu cầu hai bên cùng rút quân. Trong hồi ký, ít nhất ba lần TS Kissinger viết rằng không những ông được thông báo trước, mà ông còn chấp thuận.
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không bao giờ chấp thuận việc rút quân đơn phương. Từ cuộc họp ở Midway, tôi luôn luôn yêu cầu rút quân từng bước và cả hai bên cùng rút. Hoa Kỳ đã thay đổi lập trường và tìm cách ép chúng tôi, với những chiến thuật mà họ thường sử dụng, bằng cách huơ thanh gươm Damocles trên đầu tôi, chẳng hạn họ đem công luận Mỹ ra đe tôi, họ bảo: “Hình ảnh của ông tại Hoa Kỳ hiện nay rất tồi tệ!” Hoặc: “Quốc hội muốn cắt giảm viện trợ.” Vân vân. Họ áp dụng đúng những chiến thuật đã biết, tiết lộ thông tin cho báo giới và đặt tôi trước sự đã rồi.
Nếu tôi từ chối, công luận sẽ quay ra chống tôi: “Ông ta đòi quá nhiều, ông ta sẽ không bao giờ cho Mỹ được rút, ông ta sẽ không bao giờ cho tù binh Mỹ được trở về.” Thế là tôi luôn phải chấp thuận. Không phải tự nguyện, mà miễn cưỡng. Tôi phản đối làm sao được, khi lần nào họ cũng bảo rằng: “Ông mà chống thì sẽ bị cắt viện trợ.”
Spiegel: Kissinger viết rằng trước bất kỳ một quyết định dù dưới hình thức nào, phía Mỹ cũng hỏi ý kiến ông trước.
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, họ hỏi ý kiến tôi, nhưng chắc chắn không phải là để nghe tôi nói “Không”, nếu đó là những quyết định phục vụ cho lợi ích của Hoa Kỳ. Họ ưa gây sức ép hơn, và đạt được gần như mọi thứ bằng cách đó.
Spiegel: Bây giờ Kissinger cay đắng chỉ trích về Chiến dịch Hạ Lào năm 1971. Ông ấy viết rằng, ông đã đồng ý rằng chiến dịch này nhất định phải thực hiện trong mùa khô. Vậy ý tưởng đó ban đầu là của ai?
Nguyễn Văn Thiệu: Của người Mỹ. Trước đó khá lâu, chúng tôi từng có ý định thực hiện, nhưng không đủ khả năng tiến hành một mình. Đến khi phía Mỹ đề xuất thì chúng tôi sẵn sàng đồng ý, để sớm chấm dứt chiến tranh. Chiến dịch đó do liên quân Việt-Mỹ thực hiện và được vạch ra rất rõ ràng: Chúng tôi tác chiến tại Lào, còn phía Mỹ thì hỗ trợ tiếp vận từ Việt Nam và từ biên giới.
Spiegel: Vì sao? Vì Quốc hội Mỹ có luật cấm quân đội Mỹ xâm nhập lãnh thổ Lào?
Nguyễn Văn Thiệu: Vâng, tôi tin là vậy. Nhưng cũng vì chúng tôi không có đủ phương tiện để tiếp tế cho binh lính, và nhất là để cứu thương binh ra ngoài. Việc đó chỉ có thề thực hiện bằng trực thăng, và chỉ phía Mỹ mới có đủ trực thăng. Không có họ thì không đời nào chúng tôi đồng ý thực hiện chiến dịch tại Lào.
Spiegel: Kissinger viết rằng quân của ông gặp khó khăn khi yêu cầu không quân hỗ trợ, vì gần như không có báo vụ viên nói được tiếng Anh.
Nguyễn Văn Thiệu: Hoàn toàn không có vấn đề gì với việc hỗ trợ của không quân. Đôi khi không có thì chúng tôi cũng không lo lắng; chúng tôi có thể dùng pháo binh. Vấn đề là: trong ba ngày mở đầu chiến dịch, phía Mỹ đã mất rất nhiều phi công trực thăng. Vì thế mà họ chần chừ, không bay đúng thời điểm và ở quy mô cần thiết. Điều đó thành ra một vấn đề lớn với quân lực Nam Việt Nam.
Spiegel: Tinh thần binh lính bị suy sụp?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi không đem được binh lính tử trận và thương binh ra ngoài. Không phải chỉ tinh thần binh lính, mà cả tiến độ của chiến dịch cũng bị ảnh hưởng.
Spiegel: Kissinger nêu ra một lý do khác. Rằng ông đã lệnh cho các sĩ quan chỉ huy phải thận trọng khi tiến về hướng Tây và ngừng chiến dịch nếu quân số tổn thất lên tới 3000. Kissinger viết rằng nếu phía Mỹ biết trước điều đó thì không đời nào họ đồng ý tham gia chiến dịch này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đối với một quân nhân, định trước một tổn thất về quân số là điều phi lý. Nếu TS Kissinger nói thế thì ông ấy thật giàu trí tưởng tượng. Chúng tôi chỉ có thể tiến về phía Tây trong giới hạn mà trực thăng cứu viện có thể bay đến. Kissinger bảo là chúng tôi đã rút quân mà không báo cho phía Mỹ. Làm sao chúng tôi có thể triệt thoái trên 10,000 quân mà họ không hay biết gì?
Spiegel: Tức là ông đã thông báo cho họ?
Nguyễn Văn Thiệu: Ồ, tất nhiên. Để tôi kể cho ông nghe một câu chuyện. Hồi đó tờ Time hay tờ Newsweek có đăng bức hình một người lính Nam Việt Nam đang bám vào càng một chiếc trực thăng cứu viện. Bên dưới đề: “Nhát như cáy”. Tôi chỉ cười. Tôi thấy nó tệ. Không thể ngăn một người lính lẻ loi hành động như vậy được. Nhưng báo chí lại kết tội lính Nam Việt Nam là hèn nhát và đồng thời giấu biến sự thật về tinh thần chiến đấu sút kém của phi công trực thăng Mỹ trong chiến dịch này.
Spiegel: Một điểm gây rất nhiều tranh cãi giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam là vấn đề ngưng bắn. Theo cuốn hồi ký của Kissinger thì ngay từ mùa Hè 1970 chính phủ Mỹ đã thống nhất về việc sẽ đề xuất một thỏa thuận ngưng bắn tại các chiến tuyến hiện có. Kissinger khẳng định rằng ông không chỉ chấp thuận mà còn ủng hộ đề xuất này.
Nguyễn Văn Thiệu: Đúng như vậy, tôi cũng cho rằng ngưng bắn phải là bước đầu tiên để đáp ứng một hiệp định hòa bình. Nhưng ngưng bắn ngay lập tức – và tôi xin nhắc lại: ngay lập tức – thì tôi không bao giờ đồng ý với Kissinger. Tôi bảo, chúng ta phải cân nhắc hết sức kỹ lưỡng việc này. Không thể thực hiện ngưng bắn trước khi tính kỹ việc ai sẽ giám sát việc ngưng bắn, nếu ai vi phạm thì hậu quả sẽ thế nào, hai bên sẽ đóng quân ở đâu, vân vân.
Spiegel: Kissinger viết: “Khi đó chúng tôi vẫn tưởng rằng chúng tôi và Thiệu cùng đồng hành hợp tác.” Phía Mỹ đã không hiểu rằng ông đem những “chiến thuật né tránh” mà “người Việt thường áp dụng với người ngoại quốc” ra dùng.
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi là một nước nhỏ, gần như mọi thứ đều nhờ ở một đồng minh lớn và vẫn tiếp tục phải xin viện trợ dài hạn của đồng minh đó, không bao giờ chúng tôi lại cho phép mình dùng những thủ đoạn nào đó.
Spiegel: Khi Mỹ đã rút, còn Hà Nội thì được phép tiếp tục đóng quân ở miền Nam, chắc ông phải thấy là ông đã thua trong cuộc chiến này?
Nguyễn Văn Thiệu: Không hẳn, nếu chúng tôi tiếp tục được sự trợ giúp cần thiết từ phía Mỹ, như chính phủ Mỹ đã hứa khi chúng tôi đặt bút ký hiệp định. Ngay cả khi ký, tôi đã coi đó là một nền hòa bình tráo trở.
Nhưng chúng tôi vẫn tin rằng có thể chống lại bất kỳ sự xâm lăng nào của Bắc Việt. Vì hai lý do: Chúng tôi có lời hứa chắc chắn bằng văn bản của Tổng thống Nixon rằng Hoa Kỳ sẽ phản ứng quyết liệt, nếu Bắc Việt vi phạm hiệp định.
Spiegel: Mặc dù ông ấy không hề cho biết sẽ phản ứng bằng cách nào.
Nguyễn Văn Thiệu: Thứ hai, chúng tôi được đảm bảo là sẽ có đủ viện trợ quân sự và kinh tế cần thiết để chống Bắc Việt xâm lược. Nếu chính phủ Mỹ thực lòng giữ lời hứa thì chiến tranh có thể kéo dài, nhưng miền Nam sẽ không bị Bắc Việt thôn tính.
Spiegel: Về điều này thì ông và Kissinger ít nhiều đồng quan điểm. Ông ấy viết rằng chiến lược toàn cục có thể sẽ thành công, nếu Mỹ đủ khả năng hành động trước bất kỳ một vi phạm nào của Hà Nội và tiếp tục viện trợ đầy đủ cho miền Nam. Nhưng chuyện gì đã xảy ra? Kissinger quy lỗi cho vụ Watergate, vì sau đó Tổng thống Mỹ không còn đủ uy tín. Ông có nghĩ rằng vụ Watergate thực sự chịu trách nhiệm, khiến tất cả sụp đổ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không phải là người Mỹ. Tôi không muốn quét rác trước cửa nhà người Mỹ. Nhưng nếu người Mỹ giữ lời hứa thì đó là sự cảnh báo tốt nhất, khiến Bắc Việt không tiếp tục xâm lăng, và chiến tranh có thể sẽ dần chấm dứt.
Spiegel: Nếu Hoa Kỳ giữ lời thì theo ông, hiệp định hoàn toàn có thể thành công?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi cho là như vậy.
Spiegel: Như vậy về tổng thể, Hiệp định Paris không đến nỗi tồi?
Nguyễn Văn Thiệu: Đó chắc chắn không phải là một hiệp định có lợi cho chúng tôi. Nó tráo trở. Nhưng đó là lối thoát cuối cùng. Ông phải hiểu rằng chúng tôi đã ký kết, vì chúng tôi không chỉ có lời hứa của chính phủ Mỹ như tôi đã nói, mà hiệp định đó còn được mười hai quốc gia và Liên Hiệp Quốc đảm bảo.
Spiegel: Trong cuốn hồi ký, TS Kissinger có những bình luận rát mặt về khá nhiều chính khách đầu đàn. Nhưng riêng ông thì bị ông ấy dành cho những lời hạ nhục nhất. Tuy đánh giá cao “trí tuệ”, “sự can đảm”, “nền tảng văn hóa” của ông, nhưng ông ấy vẫn chú tâm vào “thái độ vô liêm sỉ”, “xấc xược”, “tính vị kỷ chà đạp” và “chiến thuật khủng khiếp, gần như bị ám ảnh điên cuồng” trong cách ứng xử với người Mỹ của ông. Vì thế, cuối cùng Kissinger nhận ra “sự phẫn nộ bất lực mà người Việt thường dùng để hành hạ những đối thủ mạnh hơn về thể lực”. Ý kiến của ông về những khắc họa đó thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Tôi không muốn đáp lại ông ấy. Tôi không muốn nhận xét gì về ông ấy. Ông ấy có thể đánh giá tôi, tốt hay xấu, thế nào cũng được. Tôi muốn nói về những điều đã xảy ra giữa Hoa Kỳ và Nam Việt Nam hơn.
Spiegel: Hay ông đã làm gì khiến ông ấy có cái cớ để viết về ông với giọng coi thường như thế?
Nguyễn Văn Thiệu: Có thể ông ấy đã ngạc nhiên vì gặp những người quá thông minh và mẫn cán. Có thể cũng do cái phức cảm tự tôn của một người đàn ông hết sức huênh hoang. Có thể ông ấy không tin nổi là người Việt đối thoại với ông ta lại địch được một người tự coi mình là vô cùng quan trọng.
Để tôi kể thêm một câu chuyện nữa: Ở đảo Midway tôi thấy buồn cười, vì thật chẳng bao giờ tôi có thể hình dung là những người như vậy lại tệ đến thế. Chúng tôi, gồm ông Nixon, ông Kissinger, phụ tá của tôi và tôi, gặp nhau ở nhà một sĩ quan chỉ huy hải quân ở Midway. Ở đó có ba chiếc ghế thấp và một chiếc ghế cao. Ông Nixon ngồi trên chiếc ghế cao.
Spiegel: Như trong phim Nhà độc tài vĩ đại của Chaplin? Hitler cũng ngồi trên một chiếc ghế cao để có thể nhìn xuống Mussolini, ngồi trên một chiếc ghế thấp hơn.
Nguyễn Văn Thiệu: Nhưng tôi vào góc phòng lấy một chiếc ghế cao khác, nên tôi ngồi ngang tầm với Nixon. Sau buổi gặp đó ở Midway, tôi nghe bạn bè người Mỹ kể lại rằng Kissinger đã rất bất ngờ vì Tổng thống Thiệu là một người như vốn dĩ vẫn vậy.
Spiegel: Trong hồi ký, Kissinger phàn nàn là đã bị cá nhân ông đối xử rất tệ; ông bỏ hẹn để đi chơi trượt nước. Nixon còn quá lời hơn. Theo Kissinger thì Nixon đã gọi ông là “đồ chó đẻ” (son of a bitch) mà Nixon sẽ dạy cho biết “thế nào là tàn bạo”.
Nguyễn Văn Thiệu: Rất tiếc, nhưng tôi không thể cho phép mình đáp lại những lời khiếm nhã, thô tục đó của Nixon, vì tôi xuất thân từ một gia đình có nề nếp.
Nếu tôi không tiếp TS Kissinger và Đại sứ Bunker thì đơn giản chỉ vì chúng tôi chưa chuẩn bị xong để tiếp tục đàm thoại. Họ đã cần đến 4 năm, vậy vì sao lại bắt tôi trả lời ngay lập tức trong vòng một tiếng đồng hồ? Có lẽ họ sẽ hài lòng, nếu chúng tôi chỉ biết vâng dạ. Nhưng tôi không phải là một người chỉ biết vâng dạ, và nhân dân Nam Việt Nam không phải là một dân tộc chỉ biết vâng dạ, và Quốc hội của chúng tôi không phải là một Quốc hội chỉ biết vâng dạ. Mà tôi phải hỏi ý kiến Quốc hội.
Spiegel: TS Kissinger viết rằng thái độ của ông với ông ấy chủ yếu xuất phát từ “lòng oán hận độc địa”.
Nguyễn Văn Thiệu: Không. Tôi chỉ bảo vệ lợi ích của đất nước tôi. Dĩ nhiên là đã có những cuộc tranh luận nảy lửa, nhưng thái độ của tôi xuất phát từ tinh thần yêu nước của tôi.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông ấy hoàn toàn “thông cảm với hoàn cảnh bất khả kháng” của ông. Ông có thấy dấu hiệu nào của sự thông cảm đó không?
Nguyễn Văn Thiệu: Không, tôi không thấy. Tôi chỉ thấy duy nhất một điều, đó là áp lực từ phía chính phủ Mỹ.
Spiegel: Kissinger viết rằng ông không bao giờ tham gia vào các buổi thảo luận về chủ trương chung. Ông ấy bảo rằng ông chiến đấu “theo kiểu Việt Nam: gián tiếp, đi đường vòng và dùng những phương pháp khiến người ta mệt mỏi hơn là làm sáng tỏ vấn đề”, rằng ông “chê bai mọi thứ, nhưng không bao giờ nói đúng vào trọng tâm câu chuyện”.
Nguyễn Văn Thiệu: Hãy thử đặt mình vào tình thế của tôi: Ngay từ đầu tôi đã chấp nhận để chính phủ Mỹ họp kín với Hà Nội. Kissinger bảo là đã thường xuyên thông báo cho tôi. Vâng, tôi được thông báo thật – nhưng chỉ về những gì mà ông ấy muốn thông báo. Nhưng tôi đã tin tưởng rằng đồng minh của mình sẽ không bao giờ lừa mình, không bao giờ qua mặt tôi để đàm phán và bí mật bán đứng đất nước tôi.
Các ông có hình dung được không: vỏn vẹn bốn ngày trước khi lên đường đến Hà Nội vào tháng Mười 1972, ông ấy mới trao cho tôi bản dự thảo mà sau này sẽ được chuyển thành văn bản hiệp định ở Paris, bằng tiếng Anh? Chúng tôi phải làm việc với bản dự thảo tiếng Anh này, từng điểm một.
Và bản dự thảo đó không phải do Nam Việt Nam cùng Hoa Kỳ soạn ra, mà do Hà Nội cùng Hoa Kỳ soạn ra. Các ông có thể tưởng tượng được điều đó không? Lẽ ra, trước hết phía Mỹ nên cùng chúng tôi thống nhất quan điểm về những điều kiện đặt ra cho hiệp định, và sau đó, nếu Bắc Việt có đề nghị gì khác thì Kissinger phải trở lại hội ý với chúng tôi. Nhưng ông ấy không hề làm như vậy.
Thay vào đó, ông ấy cùng Bắc Việt soạn ra các thỏa thuận rồi trình ra cho tôi bằng tiếng Anh. Các ông có thể hiểu cảm giác của tôi khi cầm văn bản của hiệp định hòa bình sẽ quyết định số phận của dân tộc tôi mà thậm chí không buồn được viết bằng ngôn ngữ của chúng tôi không?
Spiegel: Nhưng cuối cùng ông cũng có bản tiếng Việt?
Nguyễn Văn Thiệu: Chúng tôi cương quyết đòi bản tiếng Việt, đòi bằng được. Mãi đến phút cuối cùng ông ấy mới miễn cưỡng chấp nhận. Sau đó chúng tôi phát hiện ra rất nhiều cái bẫy. Tôi hỏi Đại sứ Bunker và Kissinger, ai đã soạn bản tiếng Việt. Họ bảo: một người Mỹ rất có năng lực thuộc International Linguistics College tại Hoa Kỳ cùng với phía Hà Nội. Nhưng làm sao một người Mỹ có thể hiểu và viết tiếng Việt thành thạo hơn người Việt. Và làm sao một người Mỹ có thể ứng đối bằng tiếng Việt với cộng sản Bắc Việt giỏi hơn chính chúng tôi? Đồng minh mà như thế thì có chân thành và trung thực không?
Spiegel: Một số quan chức cao cấp ở Hoa Kỳ từng nhận định rằng thực ra Kissinger chỉ cố gắng đạt được một khoảng thời gian khả dĩ giữa việc Mỹ rút quân và sự sụp đổ tất yếu của Nam Việt Nam. Trong cuốn sách của mình, Kissinger bác bỏ quan niệm đó. Ý kiến của ông thì thế nào?
Nguyễn Văn Thiệu: Bất kể người Mỹ nói gì, tôi tin rằng mục đích cuối cùng của chính phủ Mỹ là một chính phủ liên hiệp tại Nam Việt Nam.
Spiegel: Nhưng Kissinger đưa ra cả một loạt điểm để chứng minh rằng không phải như vậy.
Nguyễn Văn Thiệu: Chính phủ Mỹ tìm cách ép chúng tôi phải đồng ý. Để họ có thể hãnh diện là đã thoát ra được bằng một “thỏa thuận danh dự”. Để họ có thề tuyên bố ở Hoa Kỳ rằng: “Chúng ta rút quân về nước, chúng ta đảm bảo việc phóng thích tù binh Mỹ.” Và ở ngoài nước Mỹ thì họ nói rằng: “Chúng tôi đã đạt được hòa bình cho Nam Việt Nam. Bây giờ mọi chuyện do người dân Nam Việt Nam định đoạt. Nếu chính phủ liên hiệp biến thành một chính phủ do cộng sản chi phối thì đó là vấn đề của họ. Chúng tôi đã đạt được một giải pháp danh dự.”
Spiegel: Kissinger viết như sau: “Nguyên tắc mà chúng tôi tuân thủ trong các cuộc đàm phán là: Hoa Kỳ không phản bội đồng minh.”
Nguyễn Văn Thiệu: Ông cứ nhìn miền Nam Việt Nam, Campuchia và toàn bộ Đông Dương hiện nay thì biết. Khi tranh luận với các đại diện chính phủ Mỹ về hiệp định hòa bình, chúng tôi thường có ấn tượng rằng họ không chỉ đóng vai, mà thực tế là đã biện hộ cho ác quỷ.
Spiegel: Có bao giờ ông thấy một chút gì như là biết ơn đối với những điều mà người Mỹ đã làm để giúp nước ông không? Trong cuốn sách của mình, Kissinger viết rằng: “Biết công nhận những cống hiến của người khác không phải là đặc tính của người Việt.”
Nguyễn Văn Thiệu (cười): Về những điều mà Kissinger viết trong cuốn sách của ông ấy thì tôi cho rằng chỉ một người có đầu óc lộn bậy, chỉ một người có tính khí tởm lợm mới nghĩ ra được những thứ như vậy. Trong cuốn sách đó ông ấy còn tỏ ý sợ người Việt sẽ đem những người Mỹ còn sót lại ra trả thù, sau khi Washington bỏ rơi chúng tôi. Không bao giờ chúng tôi làm những điều như thế, không bây giờ và không bao giờ.
Spiegel: Cá nhân ông có cảm thấy một chút hàm ơn nào với họ không?
Nguyễn Văn Thiệu: Hết sức thực lòng: Nếu chính phủ Mỹ không phản bội, không đâm dao sau lưng chúng tôi thì nhân dân Việt Nam mãi mãi biết ơn họ. Có lần, sau khi chúng tôi tranh luận rất kịch liệt về một văn bản trong hiệp định, một số thành viên trong chính phủ của tôi bảo rằng, nếu Kissinger lập công với miền Nam như ông ta đã lập công với miền Bắc thì may mắn biết bao. Tôi bảo họ: nếu ông ấy thương lượng được một nền hòa bình thực sự với Hà Nội thì miền Nam sẽ dựng tượng ông ấy, như MacAthur ở Nam Hàn. Nhưng đáng tiếc là đã không như vậy. Nhìn vào những hậu quả của nền hòa bình ấy: trại tập trung cải tạo, nạn đói, nhục hình tra tấn, hàng ngàn thuyền nhân bỏ mạng trên biển, và một cuộc diệt chủng tàn bạo hơn, hệ thống hơn và hoạch định hơn cả ở Campuchia, tôi nghĩ tốt nhất là người Mỹ nên tự đánh giá những điều mà ông Nixon và ông Kissinger đã gây ra cho miền Nam Việt Nam. Kissinger không có gì để tự hào về nền hòa bình mà ông ấy đã đạt được. Đó là hòa bình của nấm mồ.
Spiegel: Xin cảm ơn ông Thiệu đã dành cho chúng tôi cuộc phỏng vấn này.
(Nguồn: “Die Amerikaner haben uns verraten“, tạp chí Spiegel số 50/1979. Những người thực hiện: Engel, Johannes K., Lohfeldt, Heinz P.)
Nguồn: Báo Trẻ Online
__________________
______________
Bài Đọc Quan Tâm
– 30.4.1975 – Ngày Tự Thú của csVN
– 30.4.1975 – Ngày Hận Thù của csVN
– VNCH – Sau 30 năm tị nạn csVN
– Danh Ngôn Chủ Nghĩa Cộng Sản
– 30 câu nói về Cộng Sản
– Chiến tranh nam bắc Mỹ
– Ngô Đình – Hiểm Họa Xâm Lăng
– Ngày Quốc Hận – 30.4.1975
– Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng
– Hồ Chí Minh – Tên Diệt Chủng thế kỷ 20
– TT Thiệu – Hòa bình của nấm mồ
– Quốc Ca – Cờ Vàng – Cờ Đỏ
– Quốc Hận – 30.4.75 Tại Sao ?
– Hòa Giải – Hòa Hợp – Dân Tộc
– Thanh Trừng – Nội Bộ Đảng csVN
CSVN thừa nhận mang 16 tấn vàng VNCH cống nộp cho Liên Xô
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
.
Càng tìm hiểu kỹ lại lịch sử, chúng ta lại càng thấm thía câu nói của tổng thống VNCH Nguyễn Văn Thiệu: “Đừng nghe những gì Cộng sản nói, mà hãy nhìn kỹ những gì Cộng sản làm!”.
Tại sao Hoa Kỳ không giúp VNCH trong trận chiến Hoàng Sa?
Hãy nghe video này,
rất nên nghe nhận biết.
Hoàng Đức Nhã : « Đừng ảo tưởng vào yểm trợ của Mỹ »
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry hội đàm với bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam Pham Bình Minh
ngày 16/12/2013 tại Hà Nội. REUTERS/Brian Snyder
Trong vài ngày nữa là đến kỷ niệm đúng 40 năm ngày kết thúc chiến tranh Việt Nam, 30/04/1975. Cuộc chiến đã kết với việc miền Nam lọt vào tay Cộng sản, một phần do Hoa Kỳ lúc đó đã hoàn toàn bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hòa. Đúng 20 năm sau đó, hai kẻ thù củ Hà Nội và Washington bình thường hóa bang giao và bây giờ, Việt Nam có vẻ muốn dựa vào Mỹ nhiều hơn để đối phó với mối đe dọa Trung Quốc.
Nhưng Hà Nội đừng nên quá ảo tưởng vào sự yểm trợ của Hoa Kỳ, mà phải lo tự phát triển tiềm lực kinh tế và quân sự để có thể bảo vệ được chủ quyền lãnh thổ. Đó là ý kiến của ông Hoàng Đức Nhã, nguyên là bí thư của tổng thống Nguyễn Văn Thiệu và Tổng trưởng Dân vận và Chiêu hồi của chính phủ Việt Nam Cộng Hòa. Năm nay 73 tuổi, ông Hoàng Đức Nhã hiện sống tại thành phố Chicago, Hoa Kỳ.
RFI : Xin kính chào ông Hoàng Đức Nhã. Thưa ông, với tư cách là một cựu quan chức chính phủ VNCH, mỗi năm khi đến ngày 30/04 thì tâm trạng của ông như thế nào, nhất là năm nay kỷ niệm đúng 40 năm sự kiện này?
Ông Hoàng Đức Nhã : Mỗi năm đến ngày này và trong thời gian những ngày trước 30/04, lúc nào tâm trí tôi cũng quay về quê hương. Thứ nhất là sống lại cái cảnh mà đáng lý ra mình không mất nước nếu hiệp định ( Paris ) được thi hành nghiêm chỉnh và đồng minh không bội ước. Thứ nhì, 40 năm qua, nhìn lại cái thực trạng đất nước mình và tình trạng mà dân Việt Nam mình phải đối đầu, tôi thấy tương lai còn nhiều nguy hiểm, chưa tốt đẹp như thật sự mình mong muốn đối với một quốc gia đã được hòa bình trong 40 năm qua.
RFI : Thưa ông Hoàng Đức Nhã, ông có nhắc đến hiệp định Paris 27/01/1973, gọi là hiệp định hòa bình nhưng thực tế là sau hiệp định này, chiến tranh vẫn tiếp diễn cho đến 30/04//75, với việc miền Nam rơi vào tay Cộng sản. Nếu hiệp định này được thi hành nghiêm chỉnh thì lịch sử đã được viết khác ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Rất đúng. Trước khi mình ký hiệp định, vào năm 1972, vào mùa Xuân và mùa Hè, khi quân Bắc Việt mở ba trận tấn công, cố chiếm lấy miền Nam, trận Quảng Trị, Thừa Thiên, ở trên cao nguyên và ở dưới Xuân Lộc. Nhưng quân lực Việt Nam Cộng Hòa đã đánh bại. Lúc đó quân đội Mỹ trợ giúp quân lực VNCH bằng những phi vụ và các vấn đề về tiếp vận, chứ không có lính tham gia, hoàn toàn chỉ có lính VNCH.
Lúc đó, chính quyền CS Bắc Việt nghĩ rằng, ngày nào mà VNCH có thời gian thì sẽ củng cố không chỉ khả năng quân sự mà cả khả năng kinh tế. Đó là điều họ sợ nhất, vì lúc đó mình đã có chương trình phát triển rất mạnh, không chỉ về mặt xã hội, mà cả kinh tế và an sinh cho nông dân.
Người nông dân biết rằng sống dưới chế độ tự do rồi một ngày sẽ có tương lai rất sáng lạng. Nếu chúng ta có thêm một năm nữa sau tháng 04/75, thì chúng ta sẽ bắt đầu xuất cảng gạo. Lúc đó nông thôn rất phồn thịnh, vì chương trình cải cách điền địa, phát triển nông thôn bắt đầu thành công. Ngoài ra, vào giữa năm 1974, VNCH có dầu lửa ở ngoài khơi. Những yếu tố đó sẽ giúp miền Nam sống qua được, mặc dù cũng còn cần đến viện trợ của Mỹ.
Người Mỹ đã không thực sự giúp VNCH trên phương diện quân sự, không làm đúng theo điều khoản ” thay thế một cây súng này bằng một cây súng khác”, nếu quân Bắc Việt tiếp tục xâm lăng, cũng như đã không giúp về mặt kinh tế, thành ra chúng ta không còn có khả năng chiến đấu, trong lúc quân Bắc Việt thì được sự hỗ trợ hùng hậu của Trung Quốc và Nga Sô.
Lúc đó, Hoa Kỳ dùng hiệp định Paris để đạt được mục tiêu chủ yếu là đem quân của họ về và lấy lại hết tù bình. Thật sự thì quân của họ đã bắt đầu rút đi từ năm 1970 và đến năm 73, khi ký hiệp định thì họ không còn quân lính chiến đấu trên lãnh thổ VNCH nữa.
Cũng như trong các hiệp định, có những điều khoản Hoa Kỳ cam kết cái này, cam kết cái kia, nhưng vì họ không đưa ra Quốc hội phên chuẩn, cho nên hiệp định đó không có ràng buộc nhân dân Hoa Kỳ, do Quốc hội đại diện, để thực thi các lời hứa. Cái đó cũng do tình hình chính trị nội bộ của Hoa Kỳ, đặc biệt là vụ scandal Watergate, và quan trọng hơn hết là lúc đó đảng Dân Chủ, đang nắm cả lưỡng viện Quốc hội, quyết tâm chấm dứt mọi sự can thiệp của Hoa Kỳ, nhất là ở Việt Nam.
Tôi lấy ví dụ hồi chiến tranh Triều Tiên, lúc đó có một thỏa ước do Quốc hội phê chuẩn đàng hoàng, nên sau này Hoa Kỳ vẫn tiếp tục giúp đở Đại Hàn, nhưng riêng đối với VNCH thì không có điều khoản đó.
RFI : Lịch sử đôi khi có những điều trớ trêu. Miền Bắc Việt Nam trước đây chiến đấu chống Hoa Kỳ, nhưng bây giờ gần như là coi nhau như đồng minh, trong bối cảnh Việt Nam đang phải đối phó với mối đe dọa xâm lăng từ Trung Quốc. Trở ngược lại lịch sử, khi nghe tin Hà Nội và Washington bình thường hóa bang giao ( năm 1995 ), cảm nghĩ lúc đó của ông như thế nào ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Người làm chính trị phải biết đối đầu với thực tế. Dĩ nhiên cảm xúc của con người thì lúc nào cũng có. Mình có thể chống, nhưng trong cương vị lãnh đạo thì mình phải biết thực trạng nó như thế nào và phải đối phó như thế nào. Không thể nào cực đoan nói rằng ông phải làm như thế này, ông phải làm như thế kia.
Thành thử, khi thấy Hoa Kỳ bắt đầu nói chuyện với Hà Nội về bãi bỏ cấm vận, rồi tiến tới tái lập bang giao, mình là VNCH bị Hoa Kỳ bội ước thì thấy điều đó là hoàn toàn phi lý, đâm sau lưng người đồng minh trước đây.
Nhưng chính trị của Hoa Kỳ không có tình cảm gì cả. Họ nói họ không có kẻ thù vĩnh cửu, cũng như bạn vĩnh cửu, mà chỉ có quyền lợi vĩnh cửu của họ. Họ nghĩ rằng tái lập bang giao ( với Hà Nội ) thì thứ nhất, họ sẽ bành trướng ảnh hưởng của họ trên phương diện chính trị, thứ hai là khai thác sự hợp tác mới về kinh tế và thương mại.
RFI : Ngày 30/04 đã cho thấy là khi cần, Hoa Kỳ có thể sẳn sàng bỏ rơi đồng minh Việt Nam Cộng Hòa, để cho miền Nam rơi vào tay Cộng sản. Nhìn từ góc độ lịch sử đó, thì theo ông hiện nay, Việt Nam có nên hoàn toàn đặt tin tưởng vào Hoa Kỳ, trong việc tìm kiếm yểm trợ chống âm mưu xâm chiếm của Trung Quốc ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Những người lãnh đạo Việt Nam hiện nay chắc là có nghiên cứu về vấn đề, nhưng nhiều khi họ tin tưởng vào người Hoa Kỳ. Cá nhân tôi, từ lúc còn làm trong chính phủ, và sau đó sang Mỹ có những nhiệm vụ nghiên cứu các vấn đề một cách chiến lược, tôi vẫn nói rằng Hoa Kỳ chỉ có những quyền lợi, mà họ gọi là quyền lợi vĩnh cửu. Nếu bảo vệ quyền lợi đó mà cần phải bỏ một người bạn mới hay người bạn cũ, thì họ cũng vẫn làm như thường. Lúc đó họ sẽ giải thích rằng : « Quyền lợi của chúng tôi không cho phép chúng tôi đi con đường đó nữa ».
Vì vậy, nếu chính quyền Việt Nam bây giờ cứ tiếp tục tin rằng Hoa Kỳ sẽ hợp tác qua những hành động mấy năm nay như hợp tác về mặt quân sự, văn hóa, đủ thứ hết, tưởng rằng Hoa Kỳ sẽ giúp Việt Nam chống lại việc Trung Quốc bành trướng ảnh hưởng ở vùng Biển Đông, thì đó là một ảo tưởng và một ngày nào đó sự thật sẽ rất là đau cho Việt Nam.
RFI : Phải chăng cái giải pháp tối ưu cho Việt Nam là phải làm sao cho lợi ích của Hoa Kỳ và Việt Nam tương hợp với nhau để mà dù muốn, dù không, hai bên buộc phải bắt tay với nhau để chống âm mưu bá quyền của Trung Quốc ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Việt Nam phải biết thực thi cái mà tôi gọi là chính trị đa dạng, không chỉ riêng trong vấn đề lãnh hải, hay vấn đề chủ quyền những quần đảo nhỏ nào đó, mà Việt Nam đang có chủ quyền thực sự hay đang đòi chủ quyền. Vấn đề đối với Việt Nam là phải có một giải pháp toàn bộ về quan hệ kinh tế và thương mại với Trung Quốc, giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, và từ đó tạo ra cho mình một cái thế thương thuyết. Thế thương thuyết này cần phải dựa trên sức mạnh. Về kinh tế thì chúng ta chưa đủ sức mạnh để đối lại sức mạnh kinh tế của Trung Quốc. Sức mạnh thứ nhì là sức mạnh quân sự, đặc biệt là hải quân? thì Việt Nam chưa có.
Khi mình thương thuyết với hai căn bản chưa vững đó, thì mình phải đi con đường rất là cẩn thận. Một mặt là dùng các giải pháp quốc tế như Liên hiệp quốc hay Tòa án quốc tế. Mặt khác tiếp cận song phương với Trung Quốc. Theo tôi? cái giải pháp gọi là đa phương, nhiều quốc gia nhảy vào giúp, sẽ không đi đến đâu. Nói thì hay lắm, nhưng trên thực tế không giải quyết gì, vì Hoa Kỳ đâu có quyền lợi gì, họ đâu có quan tâm đến chuyện đảo này hay mỏm đá kia trong vùng « lưỡi bò ». Họ cũng đã tuyên bố là không ủng hộ bất cứ phe nào trong tranh chấp ( chủ quyền Biển Đông ). Thành thử nghĩ rằng Hoa Kỳ sẽ giúp chúng ta để chống Trung Quốc là một ảo tưởng.
RFI : Tức là Việt Nam không thể dựa hẳn bên này để chống bên kia, mà phải có một giải pháp trung dung, đứng giữa hai cường quốc nhưng vẫn bảo vệ được chủ quyền ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Rất đúng. Giải pháp trung dung thì người Việt Nam từ xưa giờ vẫn không đi đến hai cực đoan. Trên phương diện quân sự thì khả năng bảo vệ vùng ven biển và lãnh hải thì Việt Nam chưa có. Tàu bè thì chưa có nhiều. Nếu có bỏ hết tiền bạc vào để tăng cường hải quân thì ít nhất cũng phải 10 năm mới có được nhiều chiếc tàu có khả năng chống lại Trung Quốc. Đó là thực trạng thứ nhất. Thực trạng thứ nhì, trên phương diện kinh tế thì Việt Nam bầy giờ vẫn còn tùy thuộc về hợp tác và giao thương với Trung Quốc.
Nhìn vào hai điểm này thì ta phải hiểu là nếu lấy giải pháp nào mà đặt hai quốc gia ở cái thế đụng độ nhau, thì chỉ có dân là chịu thiệt hại thôi. Ngay cả Philipines là đồng minh của Hoa Kỳ, có hiệp ước bảo vệ Philippines, mà vẫn không giải quyết được chuyện bãi đá Scarborough bị Trung Quốc chiếm cách đây 2 năm. Là đồng minh của Hoa Kỳ, có hiệp ước an ninh, mà Hoa Kỳ cũng không nhảy vào giúp Philippines giành lại Scarborough.
RFI : Nhưng đối với Việt Nam thì có thêm một vấn đề, đó là quan hệ giữa Việt Nam với Trung Quốc không phải là mối quan hệ bình thường giữa hai quốc gia, mà là quan hệ giữa hai quốc gia với hạt nhân là hai đảng Cộng sản cầm quyền. Phải chăng quan hệ đó khiến Việt Nam khó đi đến một con đường ngoại giao độc lập, đứng giữa hai cường quốc, nhưng vẫn bảo vệ được vị thế, chủ quyền của mình ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Đó là một điểm quan trọng. Thật sự đúng là ở hai nước, Đảng là người cầm quyền, chính phủ chỉ là cơ quan để thi hành chính sách của Đảng. Có điều đảng Cộng sản Việt Nam và Trung Quốc, tuy đều có ý thức hệ Cộng sản, nhưng chỉ lo đến vấn đề quyền lợi của họ, quyền lợi kinh tế, quyền lợi quân sự.
Bao nhiêu người đã viết, mà cũng chưa chắc là đúng, rằng vùng Biển Đông có rất nhiều dầu khí, nhưng biết đâu sau này khi đến đó khoan dầu, thì mới thấy chỉ có vài ba cái giếng, không đủ để khai thác thương mại. Nhưng Trung Quốc dùng lý do đó để nói rằng chúng tôi giành tài nguyên này để một ngày nào đó chúng tôi sẽ khai thác. Như vậy, tuy là đều có ý thức hệ Cộng sản, nhưng họ có giúp gì nhau đâu, chỉ vì quyền lợi của họ thôi.
RFI : Như ông có nói ở trên, thì về mặt quân sự và kinh tế, Việt Nam chưa có đủ tiềm lực để đối đầu với Trung Quốc. Vậy thì trong bối cảnh hiện nay, 40 năm sau khi chiến tranh kết thúc, vì sao chúng ta chưa phát triển được những nội lực đó, nhất là chúng ta có một cộng đồng người Việt ở nước ngoài rất đông đảo, với những tiềm lực có thể giúp đất nước phát triển mạnh hơn?
Ông Hoàng Đức Nhã : Lý do rất đơn giản. Thứ nhất, ở trong nước chưa có dân chủ tự do, nên người dân không có cơ hội để thi hành ý kiến của họ để phát triển hay làm ăn. Cái gì cũng phải theo guồng máy của chính quyền. Cộng thêm chế độ con ông cháu cha, nên người dân thường đâu có thể nhảy vào được.
Thứ nhì, về phương diện phát triển kinh tế của Việt Nam, theo tôi, họ không nhắm vào việc tạo khả năng kinh tế, khả năng sản xuất, mà chỉ nhắm vào những dịch vụ mà yếu tố quyết định là giá nhân công rẻ. Làm như thế thì về lâu về dài sẽ không tạo ra sức mạnh kinh tế.
Cách đây 20 năm, Trung Quốc cũng bắt đầu như thế, nhưng họ đưa ra những chính sách, đưa người dân đi học, cho tự do làm ăn. Từ đó phát triển từ việc chỉ làm hàng rẻ tiền : quần áo, giày dép, đi đến sản xuất hàng điện tử và nhiều thứ khác.
Việt Nam cũng phải làm giống vậy, phải mở rộng ra, có như thế người Việt Nam ở hải ngoại mới thấy rằng họ có thể đóng góp được, chứ không phải là về đầu tư, rồi sau đó một thời gian bị giựt, với lý do này, lý do nọ.
RFI : Hòa giải dân tộc là cụm từ nhiều người hay nhắc đến. Nhưng theo ông thì vì sao cho tới nay chúng ta vẫn chưa thật sự có hòa giải dân tộc để người Việt trong và ngoài nước đoàn kết một lòng, phát triển đất nước và bảo vệ đất nước ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Điều đó rất dễ hiểu là tại vì chế độ ở Việt Nam bây giờ vẫn là chế độ Cộng sản, độc quyền, độc đảng, mà độc quyền độc đảng thì làm sao có dân chủ được ? Khi hòa giải mà không có căn bản dân chủ thì hòa giải cái gì bây giờ ? Đó chỉ là hòa giải một chiều thôi. Mà hòa giải một chiều thì làm sao gọi là hòa giải được ? Đó là thống trị thì đúng hơn!
RFI : Chính quyền trong nước thì vẫn trách người Việt hải ngoại là vẫn mang tâm lý thù hằn, không chịu hòa giải với người phía bên kia, vẫn còn giữ ảo tưởng của quá khứ, … Nếu gặp những người nói như thế, thì ông sẽ trả lời như thế nào ?
Ông Hoàng Đức Nhã : Tôi sẽ trả lời như thế này : Cái chuyện đó là dĩ nhiên. Người Việt Nam Cộng Hòa chúng tôi lúc trước đã chiến đấu để bảo vệ quyền tự do và tạo điều kiện ấm no cho dân chúng. Bây giờ tôi thấy chính quyền không thực hiện được ( những điều đó ) sau 40 năm không có chiến tranh, vẫn không có dân chủ và vẫn không tạo những điều kiện tốt về xã hội, về y tế cho dân, thì dĩ nhiên tôi đâu chấp nhận được cái chuyện mấy ông nói về hòa giải dân tộc. Nếu muốn nói chuyện với những cộng đồng Việt Nam ở hải ngoại, thì phải tạo những điều kiện tối thiểu cho những cộng đồng đó thấy rằng chính quyền Việt Nam bây giờ đã có những biện pháp cụ thể, tạo những điều kiện để hai bên cùng nói chuyện. Nhưng theo tôi thì hiện chưa có những điều kiện đó và như vậy là khó có thể hòa giải dân tộc.
RFI : Xin cám ơn ông Hoàng Đức Nhã.
nguồn
Người Tây phương nói về cuộc chiến Việt Nam
Cựu Tổng thống Nixon viết trong hồi ký (1): Thực không cố biến cố nào trong lịch sử Hoa Kỳ bị hiểu lầm hơn cuộc chiến Việt Nam, hồi đó đã được tường trình sai và bây giờ người ta vẫn nhắc tới một cách sai lạc. Thật là hy hữu có lắm người sai lầm như vậy. Chưa bao giờ hậu quả những sự hiểu lầm của họ đã bi đát như thế.
Việt nam đã là đề tài của hơn 1,200 cuốn sách, hàng nghìn bài báo, mấy chục cuốn phim và tài liệu truyền hình, đa số kết luận như sau:
– Cuộc chiến VN chỉ là nội chiến
– Hồ Chí Minh trước hết là người quốc gia sau đó là người CS, được đa số người hai miền ủng hộ.
– Ngô Đình Diệm là bù nhìn của thực dân Pháp.
– Mặt trận giải phóng miền nam là một phong trào cách mạng không phụ thuộc vào Bắc Việt.
– Việt Cộng được lòng dân làng quê với chính sách nhân đạo của họ.
– Lời Tuyên bố của Hiệp định Genève 1954 đòi hỏi chính phủ Diệm và Mỹ phải tuyển cử thống nhất hai miền.
– Phần nhiều lính Mỹ (ở VN) nghiện ngập, tàn ác vô nhân đạo.
……
– Mỹ bại trận về quân sự.
– Trận Mậu Thân 1968 là thất bại quân sự của Mỹ
– Người Mỹ cố ý oanh tạc các mục tiêu thường dân ở BV
– Thuyết Domino được chứng tỏ là sai
– Cuộc sống tại Đông Dương tốt đẹp hơn sau khi Mỹ rút đi
. . . . . . . . .
Và Nixon kết luận tất cả những nhận định trên đây đều sai lạc.
Không riêng gì người Mỹ, nhiều người Pháp, người Âu cũng nhận định sai về cuộc chiến VN. Tôi xin đề cập một số trường hợp điển hình như dưới đây:
Hai sử gia người Pháp Jean Lacouture và Philippe Deviller cùng viết La Fin d’une Guerre Indochine 1954, (Kết Thúc một Cuộc Chiến Đông Dương 1954) in 1960. Năm 1969 cuốn sách được dịch và xuất bản bằng tiếng Anh End of a War Indochina 1954, trong phần đề tựa bản dịch này Jean Lacouture nói: Hai cuộc chiến (Đông Dương lần I và II) rất giống nhau.
1- Trong cả hai trường hợp các cường quốc Tây phương (tức Pháp, Mỹ) đã muốn biến đổi người Việt Nam tới chế độ, sự lãnh đạo và cách thức tiến bộ mà họ chọn cho VN, nhưng đều thất bại.
2- Trong cả hai trường hợp, các cường quốc Tây phương đã không biết tới tinh thần thống nhất cơ bản, sâu xa của dân tộc VN và đã dai dẳng cố giữ cái biên giới về địa lý cũng như ý thức hệ mà người VN bác bỏ.
3- Trong cả hai, người Tây phương nói là họ chống CS xâm lăng do Mạc Tư Khoa, Bắc Kinh xúi dục mà không chịu nhìn nhận nguyên do cơ bản mà Việt Minh hay Việt Cộng chiến đấu.
4- Trong cả hai, đoàn quân viễn chinh rõ ràng là người ngoại quốc xa lạ đối với đất nước (VN) và bị đại đa số người dân (VN) chống đối cùng với thủy thổ bất phục như rừng già, đầm lầy, sốt rét ngã nước …..
Điểm thứ nhất Jean La Couture nói người Tây phương áp đặt một chế độ hay sự lãnh đạo lên nước VN là hoàn toàn sai. Người Quốc gia tự nguyện theo chề độ dân chủ thân Tây phương và lựa chọn người lãnh đạo để chống CS xâm lược.
Điểm thứ hai ông ta nói tinh thần thống nhất sâu xa của dân tộc VN là cơ bản cho sự chiến đấu chỉ là luận điệu tuyên truyền của CS. Người Việt Nam thời ấy nông vi bản, họ ngày ngày vác cuốc ra đồng mà chẳng cần biết thống nhât là gì. Chẳng ai muốn thống nhất bằng núi xương sông máu, chẳng ai muốn con em họ phải vác súng vượt Trường Sơn, mười người vô Nam chỉ có một người quay trở về. Tại sao không thống nhất bằng hòa bình mà phải chém giết nhau? Đó là tội ác chứ không thể gọi là tinh thần dân tộc.
Nỗ lực thống nhất đất nước năm 1975 đã được cựu đảng viên Bùi Tín gọi là “Cuộc Ăn Cướp Vĩ Đại”, các đảng viên CS tranh nhau cướp nhà, cướp tài sản của người miền Nam công khai, xua đuổi dân đi kinh tế mới để đưa bè đảng vào ăn trên ngồi chốc, nay hầu hết nhà mặt đường Sài Gòn đã đổi chủ. Các chưc vụ béo bở hái ra tiền đều vào tay đảng viên từ miền Bắc đổ vào. Máy móc, xe cộ, lúa gạo bị cướp mang đi hàng loạt. Cựu đảng viên Dương Thu Hương nói năm 1975 một nước mọi rợ đánh chiếm một nước văn minh, đó không phải là thống nhất đất nước mà là một nước nghèo đói lạc hậu đi ăn cướp một nước giầu, trù phú.
Điểm thứ ba ông ta ngụ ý ca ngợi mục tiêu cao đẹp của Việt Minh hay Việt Cộng chiến đấu giành độc lập và thống nhất tổ quốc. Sự thực thì họ chẳng có nguyên do chính đáng nào ngoài việc áp đặt chủ nghĩa chuyên chính vô sản Đệ Tam quốc tế lên đầu lên cổ toàn dân VN và chiếm đoạt vựa lúa miền Nam.
Điểm chót cùng theo Lacouture đoàn quân viễn chinh Pháp và sau này Mỹ là người ngoại quốc bị đại đa số dân Việt chống đối, sự thực chỉ có những người CS chống đối mà thôi. Trong cuộc chiến 1946-1954, những năm đầu người Pháp bị thù ghét vì họ tái chiếm Đông Dương lập lại chế độ thực dân nhưng sau đó họ hợp tác và giúp đỡ người VN chống Việt Minh tay sai CS quốc tế. Cuộc chiến VN lần thứ hai, người Mỹ giúp đỡ miền nam tận tình chống CS tàn ác bảo vệ tự do, không có lý do gì để người VN thù ghét họ
Stanley Karnow đề tựa cuốn Dien Bien Phu, The epic Battle America Forgot (Điện Biên Phủ, Trận Đánh Oai Hùng Người Mỹ Đã Quên) của tác giả Mỹ Howard Simpson. Tại trang XI Karnow cho biết ông đã hỏi Võ Nguyên Giáp tại Hà Nội: các ông chiến đấu chống Mỹ tới bao giờ thì ông ta trả lời hai mươi năm nữa, có thể một trăm năm nữa, bất kể thiệt hại bao nhiêu. Và Karnow kết luận Mỹ cũng như Pháp trước đây đã đương đấu với một kẻ địch coi mục tiêu là thiêng liêng sẵn sàng hy sinh ghê rợn để đạt tới và ông khuyên Mỹ phải quan tâm bài học này.
Sự thực không phải người Mỹ chịu thua chiến lược cố đấm ăn xôi đẩy thanh niên vào chỗ chết của Võ Nguyên Giáp, của CSVN mà vì TT Johnson sai lầm đã áp dụng chiến lược hạn chế (limited war) không dám làm mạnh năm 1965, 1966…để cho cuộc chiến kéo dài và cuối cùng thua ở Mặt trận tại đất nhà chứ không phải thua VC.
Trong lời mở đầu (introduction) tác phẩm, tác giả Simpson nói về trận Điện Biên Phủ, ông chỉ trích Pháp chủ quan khinh địch nên đã thảm bại, ông cũng nói thập niên 60, 70 người Mỹ cũng khinh địch (BV, VC) như Pháp trước đây (trang XX) .
Thật ra Pháp thất trận Điện Biên Phủ vì yếu hơn Việt Minh đã được Trung Cộng viện trợ ồ ạt về quân sự. Thập niên 60, 70 hỏa lực Mỹ đã đè bẹp CSBV, VC tại miền nam VN và đã giết được mấy trăm ngàn tên địch nhưng thua vì Mặt trận tại đất nhà
Trang XXIV ông nói : Mặc dù đạo quân thực dân là quá khứ nhưng di sản của nó vẫn còn, Quân đội VNCH không bao giờ phủ nhận được cái gốc gác của nó là quân đội thuộc địa do người Âu châu huấn luyện. Nay Mỹ thay Pháp, cái màu thực dân vẫn còn và đã cho VC đề tài tuyên truyền đây là quân đội tay sai. Đối với chúng ta “thực dân” vẫn là nhãn hiệu lịch sử đối với nhiều nước thế giới thứ ba, nó vẫn là một biểu tượng xấu.
Đây chỉ là sự tưởng tượng của một người không tiếp xúc, gần gửi với miền nam VN trong thời kỳ chiến tranh. Quân đội Mỹ không được quyền bắt bớ người dân như thời Pháp thuộc, trái lại họ giúp đỡ và bảo vệ người Việt. Người dân thường bỏ chạy về phía VNCH và quân đội Mỹ khi bị VC tấn công.
Trang XXV ông viết: lính Mỹ không biết mục đích chiến đâu đó là điều bất lợi, trong khi kẻ địch (VC) tin vào mục đích chiến đấu nên chịu gian khổ, chết nhiều cho mục tiêu.
Hoàn toàn sai, tác giả ca ngợi đối phương quá đáng, con người ta chẳng có ai xương đồng da sắt, ai cũng sợ chết, những người theo Việt Minh thập niên 40, 50 và theo VC thập niên 60, 70 phần nhiều vì sợ mà phải theo, hoặc bị ép buộc tham gia, biết là gian khổ, nguy khốn cũng không dám bỏ trốn.
Neil Sheehan đặc phái viên UPI và New York Times trong phần đề tựa (introduction) cuốn The Battle of Dien Bien Phu (Trận Điệm Biên Phủ) của Jules Roy (cựu Đại tá không quân Pháp) đã viết: năm 1963, 9 năm sau trận ĐBP, các tướng lãnh nhà ngoại giao Mỹ cũng sẽ chịu chung số phận người Pháp trước đây. Bảo Đại suy đồi bị đầy sang Pháp, Ngô Đình Diệm quan liêu, xa lánh người dân…… người CS đã đuổi quân Pháp khỏi VN được người dân tin tưởng, Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo quốc gia lớn nhất được lòng dân. Mỹ trợ giúp miến nam trong khi đây chỉ là tàn tích từ thời thực dân để lại, tham nhũng có từ thời Bảo Đại , Mỹ thất bại ở VN cũng nhiều cái giống như Pháp.
Sheehan một ký giả nổi tiếng được giải thưởng Pulitzer nhưng đã trắng trợn xuyên tạc sự thật, khuynh tả rõ ràng không một chút khách quan. Nếu nói người CS đuổi thực dân ra khỏi VN được người dân tin, Hồ Chí Minh là người quốc gia được lòng dân thì sao năm 1954, người CS và Hồ Chí Minh về tiếp thu Hà Đông, Hà Nội, Hải Phòng…thì đã có hàng triệu người bỏ xứ vào nam. Nếu người CS và Hồ Chí Minh là người quốc gia thì tại sao phải yêu Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, họ là người quốc gia hay tay sai của CS quốc tế?
Sheehan ca ngợi đối phương lộ liễu, về trận Điện Biên Phủ ông chê Tướng Pháp Navarre và Bộ tham mưu không nhận thức được là lý thuyết quân sự Tây phương thất bại trước chiến lược địch (Việt Minh) đưa tới thảm bại.
Sự thực lực lượng địch tại đây quá đông đảo, gấp 4 hoặc 5 lần Pháp, hỏa lực pháo binh và phòng không của Việt Minh quá mạnh đã chế ngự và đè bẹp quân Pháp, chẳng có gì liên hệ tới chiến thuật chiến lược.
Chỗ khác ông ta nói: người Mỹ không biết rằng dân quê VN thắng chế độ Diệm, một chế độ cũng thối nát độc ác như bọn tay sai thực dân trước đây. Nguyên do CS lan rộng ở miền quê miền nam VN từ 1957 tới 1961 là do sự thối nát, gia đình trị của ông Diệm, Mỹ không thực tâm muốn chế độ Diệm phải cải tổ.
Nhà báo Sheehan không hiểu gì về tình hình quân sự và cuộc chiến tại miền nam, trước khi tập kết ra Bắc năm 1954 họ đã để lại nhiều cán binh nằm vùng chờ thời. Năm 1957 sau khi đã hoàn thành Cải cách ruộng đất, đấu tố mà CS Nga Tầu ép phải thực hiện, Hà Nội phát động cuộc chiến tranh du kích để chiếm vựa lúa miền nam mà họ thèm khát từ trước. Kế đó họ cho những đảng viên tập kết băng qua vùng khu phi quân sự tại sông Bến Hải vào Nam hàng đàn hàng lũ chứ chẳng có ai tại miền nam muốn nổi dậy chống chính phủ, VC bắt ép thanh niên miền quê gia nhập các đơn vị Mặt trận giải phóng miền nam, ai từ chối thường bị sát hại để làm gương.
Tác giả Jules Roy nói về sự thất bại của Pháp tại Điện Biên Phủ (trang 289) như sau: Lý do tại sao kẻ thắng trận ĐBP lại là kẻ trang bị yếu hơn? Suy cho cùng một bên có và một bên không có niềm tin của người dân muốn chiến đấu hay họ muốn bác bỏ.
Ông này đã từng là Đại Tá trong quân đội Pháp mà không nắm vững tình hình chiến sự tại ĐBP, trong khi Việt Minh (VM) đưa 6 sư đoàn chính qui thiện chiến nhất của họ bao vây ĐBP, đông gấp 4 hoặc 5 lần Pháp. Hỏa lực pháo binh của VM bắn như mưa đè bẹp quân Pháp, cao xạ VM chế ngự bầu trời và vô hiệu hóa không quân quá yếu của Pháp, toàn bộ chiến trường Đông Dương Pháp chưa có tới 200 máy bay cánh quạt và vận tải. Trong một trận đánh qui ước bên nào lực lượng mạnh, đông thì nắm chắc phần thắng trong tay.
Trang 294 ông nói: nhiều năm sau trận đánh, Jules Roy trong chuyến viếng thăm ĐBP ông quan sát cảnh người dân làm ruộng, sinh sống, chắt chiu kiếm lúa gạo… và tìm ra nguyên do: men chiến đấu khiến họ liều thân lao vào súng máy, hàng rào kẽm gai là vì lý tưởng tự do và danh dự được làm bộ đội cụ Hồ.
Sự thật thì chẳng ai muốn lao vào chỗ chết, chẳng có ai xương đồng da sắt, ai cũng sợ chết nhưng kỷ luật khắt khe của bộ chỉ huy CS không cho phép người chiến sĩ lùi bước. Nhiều nhà báo, chính khách, giới quân sự Tây phương ca ngợi tinh thần chiến đấu của Việt Minh, VC, họ có mất gì đâu một lời khen ngợi, ta thường nói được tiếng khen thì ho hen chẳng còn.
Không những truyền thông báo chí mà ngay cả các chính khách tên tuổi cũng nhận định sai về tình hình chính trị quân sự của VN. Tác giả Fredrik Logevall trong cuốn Ember of war… (2) trang 478 có nói về ĐBP: Thượng nghị sĩ Kennedy cho biết đổ tiền của và người vào những khu rừng núi Đông Dương một cách vô ích vì không có hy vọng thắng. Dù Mỹ có giúp đỡ cũng không thể thắng địch khi chúng ở khắp mọi nơi, nó được người dân có cảm tình và che chở.
Sự thực thì người dân sợ cả Việt Minh và thực dân Pháp, họ sợ VM hơn Pháp vì VM ghê rợn hơn, thu thuế, theo dõi và có khi thủ tiêu họ. Tại hậu phương VM, người dân trốn về vùng Quốc gia do Tây kiểm soát rất nhiều. Họ phải che chở VM vì nếu không sẽ bị trả thù thê thảm chứ không phải vì có cảm tinh.
Trang 484 sách kể trên nói: ngoại trưởng Eden (Anh) không tin là viện trợ của Trung Cộng (TC) cho Việt Minh là quyết định, theo tin tức của Tình báo cho biết số lượng viện trợ của Mỹ cho Pháp lớn hơn của TC cho VM rất nhiều. Ông cho rằng dù (Mỹ) can thiệp để TC không còn viện trợ cho VM, ông và những người Anh khác vẫn tin VM là một đe dọa lâu dài.
Ông ngoại trưởng Eden nói dù VM không nhận được giúp đỡ của TC họ vẫn là mối đe dọa, thế thì họ lấy súng đạn ở đâu? chắc họ mua súng lậu? ông nói Pháp được Mỹ viện trợ nhiều hơn là VM được Tầu viện trợ, nhưng Tướng tư lệnh Navarre lại nói những năm 1953, 54 Đông dương lâm vào tình trạng hấp hối, chẳng lẽ Pháp mạnh hơn VM lại sắp thảm bại? Tướng Navarre, Tư lệnh quân Pháp tại Đông Dương cho biết những năm 1953, 1954 quân lưu động VM rất mạnh khoảng 9 sư đoàn, gấp ba quân lưu động Pháp gồm 7 Liên đoàn lư động và 8 tiểu đoàn nhẩy dù (3)
Trang 495 nói: Walter Robertson, phụ tá Bộ trưởng ngoại giao Hoa Kỳ đặc trách Viễn đông sự vụ có nói với ký giả Sulzberger tờ New York Times ngày 22-4-1954: người VN ghét người thực dân nhưng Mỹ lại kết với ông vua bù nhìn của Pháp đó là ông Bảo Đại gớm ghiếc, Robertson lẩm bẩm chán nản “chỉ cần Hồ Chí Minh về phía chúng ta, ta có thể thay đổi tình hình nhưng tiếc rằng ông ta là kẻ địch”
Nhiều sử gia và chính khách Tây phương, trong đó có TT Eisenhower cho rằng ông Bảo Đại theo Tây bị người dân VN oán ghét, ông Hồ Chí Minh chống Pháp nên được người dân quí trọng. Đó chỉ là những nhận định chủ quan, hoàn toàn sai lạc, họ nghĩ người Việt ghét thực dân, ai chống thực dân sẽ được coi như anh hùng, ái quốc.
Người dân ghét Tây điều này không ai phủ nhận nhưng họ sợ hãi Việt Minh, giữa Pháp và Việt Minh họ vẫn chọn sống trong vùng quân Pháp kiểm soát vì sống với Việt Minh chẳng khác nào một cơn ác mộng, đói khát, hà khắc, tàn bạo. Người Tây phương không hề biết rằng người ta theo VM hay VC vì sợ hãi hoặc bị ép buộc hơn là tự nguyện. Theo tờ tường trình của Tướng Leclerc gửi chính phủ Pháp ngày 27-3-1946 thì tính tới cuối năm 1945, VM đã thủ tiêu, giết hại tổng cộng khoảng 50,000 người. (4)
Người bị trị đều ghét thực dân, nhưng giữa thực dân và CS họ vẫn thích sống với thực dân hơn. Năm 1997 chính phủ Anh trao trả nhượng địa Hồng Kông cho Trung Cộng nhưng người dân Hồng Kông đã biểu tình phản đối, có người nhẩy lầu tự tử, họ đòi được sống dưới ách nô lệ của thực dân hơn là chuyển sang sống với CS.
Theo lời kể của ông Đoàn Thêm (5) chính phủ Bảo Đại chấp chính từ tháng 7-1949 đến đầu năm 1950, cựu hoàng về nước trị vì đã gây được niềm tin tưởng nơi người dân y như nhà có nóc. Từ đấy dân chúng taị hậu phương Việt Minh hồi cư tấp nập về thành thị, các tỉnh Bắc Ninh, Hà Đông, Hà Nội, Sơn Tây… trong tháng 7-1949 mỗi ngày có vài nghìn người, riêng ngày 30-10 tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây…số người trở về lên tới 35 ngàn người. Giải pháp Bảo Đại đem lại thắng lợi, người dân bỏ già Hồ về với cựu hoàng.
Diện tích vùng thuộc Pháp tại Trung châu tăng lên gấp ba, số ruộng cầy cấy tăng lên nhiều. Gạo xuất cảng từ 59 ngàn tấn năm 1945 tăng lên 379 ngàn tấn năm 1950, nhân công dồi dào, an ninh bảo đảm hơn, các ngành sản xuất than đá, vải sợi, xi măng, đường… đều tiến bộ. Trị giá nhập cảng năm 1946 là 16 tỷ đồng quan Pháp đến năm 1949 tăng lên 73 tỷ đồng. Hàng hoá tràn ngập các cửa hiệu, chợ búa, các ngành sản xuất cũng tiến hẳn lên, lương bổng công tư chức khá cao. Cựu hoàng về nước đem theo nhiều thuận lợi, hàng nhập cảng ngày càng nhiều.
Mỹ, Anh, Úc …và nhiều nước trên thế giới tự do thừa nhận chính phủ Quốc gia, tình hình kinh tế, chính trị, ngoại giao, quân sự đều sáng sủa. Thủ đô chính trị là Sài Gòn, các phái đoàn ngoại giao đều thiết lập ở đó.
Người dân bỏ hậu phương Việt Minh vì quá gian khổ và vô lý, giành độc lập bằng bạo lực, đưa đất nước vào cảnh núi xương sông máu. Họ kéo nhau về vùng quốc gia thuộc Pháp vì cuộc sống ở đây dễ thở và sung túc hơn nhiều. Đối với người hồi cư, hình ảnh của Hồ Chí Minh, của đảng Lao Động là những biểu hiện gớm ghiếc, ghê sợ.
Những nhận định sai lạc như trên của truyền thông báo chí Tây phương có nhiều ác ý và ảnh hưởng tai hại, nó đã thúc đẩy phong trào phản chiến lên cao đưa cuộc chiến Đông Dương tới chỗ sụp đổ tan tành.
Trọng Đạt
———————————————————–
Chú thích
(1) Richard Nixon: No More Vietnams, chương 1 The Myths of Vietnam, trang 9
(2) Fredrik Logevall: Embers of War, The Fall of An Empire And The Making Of America’s Vietnam, Sụp Đổ Của Đế Quốc Pháp Và Sự Khởi Đầu Cuộc Chiến Của Người Mỹ tại Việt nam
(3) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 47
(4) Quân sử 4, Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa trong giai đọan hình thành 1946-1955, Bộ Tổng Tham Mưu VNCH năm 1972
(5) Đoàn Thêm: Những Ngày Chưa Quên, quyển thượng trang 138-140, 173-174, 206-210
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
nguon
Tổng thống Thiệu triệt thoái quân đoàn hai
Gần đây trong một cuộc tiếp xúc riêng với cựu Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2, Đại tá cho tôi biết đã có rất nhiều người hỏi ông:
“Có phải TT Thiệu rút bỏ Quân đoàn 2 tại Pleiku giữa tháng 3-1975, giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ, khiến cho Mỹ sót ruột phải nhẩy vào?”
Cách đây khoảng nửa năm, trong một lần tiếp xúc khác Đại tá có nói ông nghi ngờ TT Thiệu rút bỏ Cao nguyên để tháu cáy Mỹ nhưng thất bại và ông có gợi ý tôi viết về chủ đề này.
Đại Tá Lê Khắc Lý nói ông đã tốt nghiệp Trường Cao Ðẳng Quốc Phòng khóa 4 năm 1972 và đã đi học ở Mỹ nhiều lần, lớp học cao nhất là “Trường Ðại Học Chỉ Huy và Tham Mưu Lục Quân Hoa Kỳ” tại Fort Leavenworth, Kansas (US Army Command and General Staff College). Chính tại trường Chỉ Huy và Tham Mưu Command and General Staff College này, ông đã học nguyên tắc chiến thuật (tactical) căn bản ngoài chiến trường là luôn luôn chiếm giữ “high ground” (vùng cao) để chế ngự các vùng đất chung quanh. Nhưng khi giảng, “thầy” cũng có nói nguyên tắc này cũng áp dụng cho “chiến lược” (strategy) nữa. Trong trường hợp Quân đoàn 2 của ta hồi 1975, ông nghĩ là đúng với nguyên tắc này. Ông cho rằng quyết định bỏ cao nguyên của ông Thiệu là sai lầm. Rôi từ vùng đất thấp là vùng duyên hải sẽ đánh ngược lên để gọi là “tái chiếm Ban Mê Thuột” là chuyện quá khó nếu không nói là “không tưởng.
Tóm lại TT Thiệu đã sai lầm về chiến thuật chiến lược khi ban lệnh lui binh xuống đồng bằng duyên hải để từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột.
Trên thực tế nhiều người cũng đã nghi ngờ ông Thiệu tháu cáy Mỹ cho rút bỏ Cao nguyên. Khoảng năm 1975,1976 khi chúng tôi ở trong trại tù CS, có một anh bạn tù tin rằng ông Thiệu giả vờ thua chạy đưa tới sụp đổ, thua luôn cuộc chiến.
Sơ lược tái phối trí
Trước hết tôi xin sơ lược về cuộc triệt thoái lịch sử này, dựa theo tài liệu, lời kể của ký giả Phạm Huấn, Nguyễn Đức Phương, các vị Tướng lãnh Cao Văn Viên, Hoàng Lạc, có tham khảo thêm tài liệu phía Cộng Sản. Như chúng ta đều biết, cuộc lui binh này đã bị thất bại nặng, nó là khúc quành quan trọng nhất trong cuộc chiến tranh VN giai đọan cuối. Người ta kết án TT Thiệu đã làm sụp đổ cả hai Quân khu 1 và 2, kế đó sụp đổ miền nam.
Sau ngày Ký Hiệp định Paris 27-1-1973, Quốc hội cắt giảm quân viện mỗi năm khoảng 50% khiến cho miền nam VN lâm vào tình trạng thiếu thốn trầm trọng về hỏa lực, tiếp liệu đạn dược.
Ngày 11-3-1975, Tổng thống Thiệu bàn luận tình hình với Thủ tướng Trần Thiện Khiêm, Đại Tướng Cao Văn Viên, Trung Tướng Đặng Văn Quang. Ông Thiệu cho biết với khả năng hiện có Quân đội VNCH không thể bảo vệ tất cả lãnh thổ, nên phải tái phối trí lực lượng để bảo vệ những vùng đông dân trù phú, quan trọng nhất là Vùng 3 và Vùng 4. Ông Thiệu không lạc quan về Vùng 1 và Vùng 2. Tại vùng 2, Ban Mê Thuột quan trọng sẽ phải chiếm lại, miền duyên hải Vùng 2 giữ được phần nào hay phần nấy.
Ngày 12-3-1975 ngân khoản 300 triệu quân viện bổ túc đã bị Quốc hội Mỹ bác bỏ, ngoài ra họ cũng không chuẩn chi cho năm tới, nghĩa là từ náy sẽ không cho một xu viện trợ nào. Tin sét đánh đã khiến TT Thiệu bị mất tinh thần khiến ông quả quyết tái phối trí.
Ngày 13-3-1975 mất Ban Mê Thuột, hôm sau ông Thiệu bay ra Cam Ranh mở phiên họp cao cấp quân sự, có mặt các Tướng Trần Thiện Khiêm, Đặng Văn Quang, Cao Văn Viên, Phạm Văn Phú, Tư lệnh vùng 2 . Phạm Huấn ghi lại theo lời kể của Tướng Phú: Tổng thống Thiệu cho biết Quốc hội Mỹ cắt quân viện, hủy bỏ những cam kết yểm trợ không lực, lãnh thổ phòng thủ quá rộng nên ta phải tái phối trí lực lượng. Ông cho biết Tướng Phú Tư lệnh Quân đoàn 2 phải rút quân bỏ Pleiku-Kontum về duyên hải, Nha Trang sau đó sẽ hành quân tái chiếm Ban Mê Thuột. Tại Quân khu 2, VNCH chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh (22, 23) và 7 liên đoàn Biệt động quân trong khi BV có 5 sư đoàn bộ binh và 4 trung đoàn độc lập ( theo tài liệu CS)
Tướng Phú xin ở lại tử thủ nhưng Tổng thống Thiệu bác bỏ, ông còn cho biết Tướng Phú phải dấu không được cho địa phương, các Tỉnh trưởng Quận trưởng biết, họ phải ở lại chiến đấu. Các vị Tướng lãnh không có ai phản đối trừ Tướng Phú xin ở lại tử thủ. Về buổi họp này Tướng BV Văn Tiến Dũng ghi lời khai của Chuẩn tướng Phạm duy Tất cũng gần giống như vậy, ông Cao Văn Viên cũng ghi lại chi tiết buổi họp cũng gần giống như lời Phạm Huấn.
Trong buổi thảo luận ông Cao Văn Viên cho biết đường quốc lộ 21 về Nha Trang không thể sử dụng được vì đường 14 từ Pleiku tới Ban Mê Thuột đã bị BV cắt, đường 19 nối Pleiku với Qui nhơn Cộng quân đóng chốt nhiều nơi, đèo An Khê bị cắt ở hai phía đông tây, ngoài đường số 7 xuống Tuy Hòa không còn đường nào khác. Đường số 7 tuy tạo được yếu tố bất ngờ nhưng là con đường bỏ hoang cầu cống hư hỏng.
Kế hoạch được hợp thức hoá và giữ bí mật cho tới giờ phút chót. Kế hoạch của Tướng Phú là Liên đoàn 20 công binh chiến đấu đi trước mở đường , thiết giáp đi theo các đoàn xe để bảo vệ, hai liên đoàn Biệt động quân và thiết giáp đi bọc hậu đoàn quân di tản.
Ngày 16-3-1975 đoàn xe bắt đầu rời Pleiku gồm các đơn vị quân cụ, đạn dược, pháo binh, khoảng 200 xe. Tướng Phú và bộ tư lệnh đi trực thăng về Nha Trang, Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất lo đôn đốc cuộc di tản, mỗi ngày một đoàn xe khoảng 200 hay 250 chiếc, ngày đầu êm xuôi vì bất ngờ.
Ngày hôm sau 17-3-1975 các đơn vị pháo binh còn lại, công binh, quân y, tổng cộng chừng 250 xe. Khi ấy dân chúng, gia đình binh sĩ chạy ùa theo, làm náo loạn gây trở ngại cho cuộc triệt thoái.
Ngày 18-3 Bộ chỉ huy và ban tham mưu Quân đoàn về tới Hậu Bổn, Phú Bổn, các đoàn xe từ ba ngày trước kẹt lại đây, đoạn đường từ Hậu Bổn về Tuy Hoà chưa giao thông được vì công binh chưa làm xong cầu qua sông Ae Pha. Tối ấy Việt Cộng đuổi theo pháo kích dữ dội gây thiệt hại hầu hết chiến xa và trọng pháo tại đây. Sư đoàn 320 BV đóng tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột được lệnh đuổi theo đoàn xe triệt thoái từ 16-3 đến 18-3-1975 vào Phú Bổn rồi tiếp tục đánh phá tới Củng Sơn. Ngày 19-3 một số lính địa phương quân người Thượng cướp giựt và bỏ hàng ngũ trốn đi gây thêm hỗn loạn. Các liên đoàn Biệt động quân, thiết giáp, bộ binh bị thiệt hại nặng, BV cũng xử dụng các chiến xa đại bác của ta bị bỏ lại để tấn công đoàn triệt thoái.
Đoàn quân rời Hậu Bổn ngày 20-3 nhưng chỉ đi được 20 km thì phải đi chậm lại vì Phú Túc phía trước bị VC chiếm, đoàn quân di tản vừa chống trả vừa tiến. Không quân đến yểm trợ nhưng ném bom nhầm vào đoàn quân gây tử thương gần một tiểu đoàn BĐQ, thiệt hại này lại càng gây thêm rối loạn. Tại Phú túc hỗn loạn diễn ra dữ dội. BV đóng chốt, một tiểu đoàn Địa phương quân và Biệt động quân được giao nhiệm vụ nhổ chốt. Khi đến Củng Sơn cách Tuy Hoà 65 km đoàn di tản phải băng qua sông Ba. Trực thăng CH-47 chở từng đoạn cầu lên sông Ba để ráp, ngày 22-3 cầu ráp xong đoàn di tản qua sông theo hương lộ 436 về Tuy Hoà, vì xe cộ quá đông cầu bị sập chết nhiều người phải sửa chữa thêm lần nữa.
Chặng đường cuối cùng từ đây về Tuy Hoà rất cam go vì có nhiều chốt VC, trời mưa lạnh, VC pháo kích đoàn di tản để cầm chân ta. Tiểu khu Tuy Hoà không còn quân để tiếp viện nên đoàn quân di tản phải tự lo lấy, các binh sĩ tiểu đoàn 34, Liên đoàn 7 BĐQ lều mạng lên tấn công các cứ điểm CS cùng với chiến xa M-113 tiêu diệt chốt địch. Ngày 27-3 sau khi thanh toán chốt cuối cùng đoàn di tản về tới Tuy Hoà buổi tối tổng cộng 300 xe (trong số 1,200 xe) mở đường máu về được Tuy Hoà,
Đường rút quân tỉnh lộ 7 lại gần vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 BV tại Buôn Hô, Ban Mê Thuột, họ được lệnh đuổi theo ngày 16-3, chỉ hai ngày là đã đuổi kịp. Ngày 18-3 Cộng quân pháo kích phi trường gây kinh hoàng cho đoàn di tản. Lực lượng chiến xa pháo binh dồn đống tại Phú bổn bị thiệt hại nặng tới 70%.
Các kho quân dụng tại Kontum, Pleiku bỏ ngỏ, tất cả quân dụng, vũ khí trị giá 253 triệu Mỹ Kim lọt vào tay CS. Sự thiệt hại về tinh thần còn to tát hơn nhiều.
Theo Nguyễn Đức Phương trong số 60,000 chủ lực quân chỉ có 20,000 tới được Tuy Hoà, 5 Liên đoàn BĐQ 7,000 người chỉ còn 900 người. Lữ đoàn 2 Thiết Kỵ với trên 100 xe tăng nay chỉ còn 13 chiếc M-113.
Ông Cao Văn Viên nói ít nhất 75% lực lượng, khả năng tác chiến của Quân đoàn 2 gồm Sư đoàn 23 BB, BĐQ, Thiết giáp, Pháo binh, Công binh… bị hủy hoại trong vòng có 10 ngày. Kế hoạch tái chiếm Ban Mê Thuột không thể thực hiện được vì không còn quân.
Tái phối trí lực lượng có mục đích co cụm lại vì không đủ lực lượng trải rộng toàn lãnh thổ.
Những nguyên do thất bại chính của cuộc di tản có thể gồm:
-Di tản quá gấp rút, cả một quân đoàn quá đông đảo, đường xá bị tràn ngập xe cộ và người chạy loạn.
-Đường số 7 bị bỏ hoang, cầu cống hư hỏng khiến cho cuộc di tản bị ngừng trệ.
-Dân chúng di tản làm náo loạn mất tinh thần quân đội
-Thiếu chuẩn bị, không lập kế hoạch lui binh vì quá gấp rút
Thực ra cuộc di tản thất bại nặng nề vì xui xẻo, đường di tản lại gần với vị trí đóng quân của Sư đoàn 320 CSBV tại Buôn Hô. Tối 16-3 Văn Tiến Dũng đã điều động, đốc thúc đạo quân này đuổi theo, hai hôm sau họ bắt kịp đoàn di tản tại Phú Bổn và đã pháo kích gây thiệt hại nặng cho ta về thiết giáp, pháo binh. Sự thất bại chứng tỏ ta không có tin tình báo chính xác về vị trí các đơn vị Cộng quân.
Ngoài ra theo lời kể của một một nhân dân tự vệ cùng gia đình từ Kontum di tản trên đường số 7, anh thanh niên này cho biết Pleiku di tản trước nên phần nhiều dân quân đã chạy thoát khỏi cuộc truy kích của Cộng quân. Người dân Kontum ở phía bắc, cách Pleiku 40 cây số khi biết Pleiku di tản thì cũng ùa chạy theo, vì chạy sau họ bị VC đuổi kịp pháo kích dữ dội. Khi ấy đoàn xe dân quân dồn đống dưới một vùng đất trũng. Đạn pháo khiến bụi bay mù mịt, không ai thấy ai chỉ thấy tiếng đạn nổ ấm ầm ghê rợn, người chết vì pháo kích, người bị xe cán nằm la liệt. Theo lời nhân chứng này dân chết rất nhiều, lính chết ít vì họ lanh lợi hơn, biết tránh đạn, nạn nhân đa số là dân Kontum . Ký giả chiến trường Phạm Huấn mô tả đây là một hành lang máu.
Giả thuyết
Ngoài những nghi ngờ của Đại Tá Lê Khắc Lý, Tham mưu trưởng Quân đoàn 2 kể trên tôi xin góp ý thêm về giả thuyết này.
Như chúng ta đã thấy, ông Thiệu lệnh cho cả một đại đơn vị (60 ngàn người) hành quân từ Pleiku xuống Tuy Hòa phía đông , rồi từ Tuy Hòa xuống Nha Trang phía nam, rồi lại từ đó lên tái chiếm Ban Mê Thuột ở phía tây. Chặng đường hành quân hình chữ U rất dài và tốn kém nhiên liệu trong khi ta đang kiệt quệ về tiếp liệu. Kế hoạch không logic lại viển vông cho thấy ông Thiệu có mục đích tháu cáy, giả vờ thua chạy hơn là mục đích quân sự. Việc tái chiếm Ban Mê Thuột theo kế hoạch của ông rất gay go và khó thực hiện trong khi ta đang thiếu thốn về mọi mặt.
Ngoài ra tôi nghĩ ông Thiệu rất chủ quan, ông vẫn tin người Mỹ không thể bỏ Đông Dương. Hạ tuần tháng 10-1972 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn thuyết trình cho ông Thiệu biết BV đã nhượng bộ những đòi hỏi chính mà họ đã dai dẳng đòi từ mấy năm qua: Không đòi lật đổ Thiệu, không có Liên Hiệp, Hội đồng hòa giải chỉ hữu danh vô thực… nhưng có điều họ không chịu rút về Bắc. Kissinger tưởng là ộng Thiệu sẽ đồng ý ký bản Dự thảo đã soạn chung với phía BV ngày 9-10-1972, dự định ký 25-10, trước bầu cử Mỹ (7-11-1972). Ông Thiệu chống đối bản dự thảo và chỉ trích Kissinger.Nixon khuyên Kissinger không nên ép Thiệu vì Nixon không muốn Hiệp định được ký trước bầu cử, qua thăm dò Nixon biết chắc sẽ tái đăc cử nhiệm kỳ hai.
Tháng sau 11-1972 và cả tháng 12 ông Thiệu mở chiến dịch trên báo chí đài phát thanh lên án Kissinger và cả Nixon ép VNCH ký bản Hiệp định bất bình đẳng, mục đích để vận động cánh tả, diều hâu bên Mỹ áp lực hành pháp không được ép VNCH . Theo TT Nixon (No More Vietnams trang 152), nếu đòi điều kiện BV rút quân sẽ không có Hiệp định, Hà Nội sẽ không chịu ký. Đó là một điều nguy hiểm, nếu VNCH gây trở ngại hòa bình thì Quốc hội thù nghịch sẽ ra tay giải quyết, họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền Nam, thực hiện rút hết quân để đánh đổi lấy tù binh Mỹ.
Người Mỹ coi việc lấy 580 người tù binh là quan trọng vào hàng đầu, dĩ nhiên đứng trên cả sự sống còn của Đông Dương, TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig.. và các nhà học giả nghiên cứu về chiến tranh VN đều nói thế.
Cuối tháng 11, ông Thiệu quảng bá tin TT Nixon gửi hậu thư cho Thiệu bắt phải ký Hiệp định Paris mục đích vận động phe diều hâu bên Mỹ ủng hộ miền Nam VN.
“Sài Gòn như nghĩ rằng chuyện tối hậu thư sẽ khiến cánh hữu áp lực tòa Bạch Ốc không bỏ rơi một đồng minh đang bị CS bao vây đe dọa. Nhưng thực ra đó là sự đánh giá sai lầm lớn, câu chuyện không được chú ý tới”
(Saigon apparently assumed that an “ultimatum” story would encourage America’s right wing to apply pressure on the White House not to abandon a beleaguered ally threatened by Communism. It turned out to be a gross and embarrassing overestimation. The Story caused barely a ripple – Marvin Kalb, Bernard Kalb, Kissinger- p. 405).
Từ TT Nixon tới Kissinger, Tướng Haig tới Đại Sứ Bunker đều nhắc nhở cho ông Thiệu biết đừng hy vọng gì vào sự ủng hộ tại chính trường Mỹ, nay diều hâu đã đổi lông đổi cánh biến thành bồ cu hết, Quốc hội thù nghịch chỉ tìm cách xiết cổ Đông Dương. Tại nước Mỹ nay số người còn ủng hộ chiến tranh Đông Dương chỉ còn đếm trên đầu ngón tay trước hết TT Nixon, Kissinger, Tướng Haig và một số phụ tá của Tổng thống và của Kissinger. Người dân và Quốc hội đã quá chán ngấy cuộc chiến sa lầy đến tận cổ. Mặc dù hành pháp Mỹ nhắc nhở TT Thiệu nhưng ông vẫn không tin, ông vẫn chủ quan cho rằng Mỹ không dám bỏ miền Nam, nơi đây vẫn là tiền đồn chống Cộng.
Vì quá chủ quan nên tháng 3-1975 ông đã sai lầm tháu cáy giả vờ thua chạy để Mỹ xót ruột nhẩy vào.
Trên đây chỉ là những giả thuyết về việc Tổng thống Thiệu tháu cáy người bạn đồng minh.
Kết Luận
Tuy nhiên không có nghĩa là TT Thiệu tháu cáy sai lầm làm sụp đổ Quân đoàn 2 đưa tới sụp đổ miền Nam. Thực ra sự sai lầm của ông chỉ làm cho miền Nam sụp đổ nhanh hơn dự kiến. Nếu TT Thiệu không thực hiện tái phối trí và để Tướng Phú tử thủ tại Pleiku, chính ông Tướng này đã nói nếu được tiếp viện có thể giữ được một tháng nhưng đó chỉ là hy vọng chủ quan trong khi đạn dược tiếp liệu miền Nam đang lâm vào tình trạng kiệt quệ. Sự sụp đổ cả hai Quân đoàn 1, 2 và cả miền Nam tháng 4-1975, một phần vì sự sai lầm của TT Thiệu và nhất là do hỏa lực yếu kém của ta trước áp lực mạnh, đông đảo của đối phương. Người ta thường nói vì ông Thiệu sai lầm triệt thoái Cao nguyên mà mất nước hoặc nói vì ông Dương Văn Minh đầu hàng CS mà mất miền Nam, vấn đề không đơn giản như thế.
Xin nói sơ về thực trạng bi đát này do hậu quả của việc Hoa kỳ cắt giảm quân viện năm 1974, 75.
-Trước hết trang 92 Cuốn Những Ngày Cuối của VNCH, ông Cao Văn Viên cho biết trong tháng 2-1975 tồn kho đạn dược của tất cả các loại súng lớn, súng nhỏ chỉ còn đủ xài 30 ngày.
-Trước đó hai tháng sau khi Cộng quân chiếm Phước Long ngày 7-1-1975, vài tuần sau vào ngày 24 và 25-1-1975, TT Thiệu gửi thư cầu cứu TT Ford về tình trạng nguy khốn của VNCH. Bức thư này được Tiến sĩ Kissinger nói tới trong Years of Renewal trang 490 như sau.
“Ông Thiệu diễn tả cuộc tấn công này của địch rất qui mô hùng hậu bằng hỏa lực mạnh và thiết giáp. Trái lại quân đội miền nam VN đã phải đếm từng viên đạn pháo để tiết kiệm để còn đạn sử dụng”
(He described the intensity of the North Vietnamese attacks, backed by the “massive application of fire power and armor”. By contrast, the South Vietnamese troops “had to count every single shell they fired in order to make the ammunition last)”.
-Theo Kissinger tháng 1-1975 báo Học tập cùa CS viết về tình trạng khó khăn của VNCH.
“Hỏa lực và sự di động của quân Ngụy giảm mạnh trong quí ba 1974, hỏa lực pháo binh hàng tháng của quân Ngụy giảm ba phần tư (3/4) so với 1973. Số phi vụ chiến thuật hàng ngày của Ngụy giảm chỉ còn một phần năm (1/5) so với năm 1972. Số máy bay Ngụy so với thời ký chiến tranh trước đây giảm 70%, trực thăng giảm 80%…Kho bom đạn Ngụy giảm mạnh và gặp nhiều khó khăn về tiếp liệu, bảo trì, sửa chữa các loại máy bay, xe tăng, tầu thuyền, vũ khí nặng…
Years of Renewal trang 480
Nhận xét của CS về sự thiếu thốn của quân đội miền Nam cũng gần với các dữ kiện trong cuốn NNCVNCH kể trên của ông Cao Văn Viên trang 86. 87. Từ trang 89 tới trang 94 tác giả đề cập vấn đề đạn dược tiếp liệu, từ tháng 8-1974 tới tháng 2-1975 quân đội ta chỉ xử dụng 19,808 tấn đạn hàng tháng chỉ bằng 27% so với 73,356 tấn dùng hàng tháng trong thời gian trước đó, nghĩa là hỏa lực đã giảm 70%!
Trong khi ấy Hà Nội được CS quốc tế viện trợ dồi dào.
Giai đoạn 1969-1972 họ được Nga, Trung Cộng và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ 684,666 tấn vũ khí. Giai đoạn 1972-1975 họ nhận được 649,246 tấn hàng vũ khí, số lượng hàng viện trợ của hai giai đoạn tương đương nhau.(Bản tin của BBC.com ngày 5-10-2006).
Theo Kissinger, Hà nội đã xin được viện trợ của Sô viết tăng gấp bội. Thàng 12- 1974, một viên chức cao cấp Nga viếng Hà Nội lần đầu tiên kể từ sau ngày ký Hiệp định Paris. Tổng tham mưu trưởng Nga Viktor Kulikov tới tham dự họp chiến lược với Bộ chính trị BV, nay họ bãi bỏ hạn chế trước đây. Sô Viết đã chở vũ khí viện trợ quân sự cho Hà Nội tăng gấp 4 lần trong những tháng sau đó. Nga khuyến khích BV gây hấn
(Years of Renewal trang 481).
Quân khu 2 diện tích rộng nhất toàn quốc gồm 12 tỉnh chỉ có 2 Sư đoàn bộ binh và 7 Liên đoàn biệt động quân bảo vệ là nơi yếu nhất so với các Quân khu khác nên CS đã chọn để tấn công trước. Sư đoàn 23 chịu trách nhiệm cao nguyên, Sư đoàn 22 bảo vệ vùng duyên hải.
Lực lượng BV tại đây gồm 5 Sư đoàn (10, 320A, 316, 968, 3) và 4 Trung đoàn độc lập (25, 271, 95A, 95B), Trung đoàn đặc công (14, 27), chưa kể các lực lương yểm trợ. Tổng cộng khoảng 6 Sư đoàn bộ binh.
(Theo Dương Đình Lập, Trần Minh Cao, Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi Dậy Mùa Xuân 1975, trang 90, 91.)
Như vậy dù ông Thiệu không rút bỏ Cao nguyên và giao cho Tướng Phú tử thủ thì cũng chỉ giữ được một thời gian nào đó, có lẽ không quá một tháng vì như đã nói trên miền Nam đã bị kiệt quệ đạn dược tiếp liệu trước áp lực mạnh và hỏa lực áp đảo của địch.
Tướng Phú nói một câu rất anh hùng, ông xin TT cho ông ở lại giữ đất chiến đấu và chết tại đó, nhưng dù ông có chết tại trận địa cũng không cứu được Quân khu, không cứu được miền Nam mà chỉ kéo dài sự dẫy chết thêm hơn một chút.
Trường hợp Tướng Phú đẩy lui được cuộc tấn công của địch tại Pleiku, Kontum…, sau đó ta lâm vào tình trạng hết đạn VNCH cũng sẽ phải xin viện trợ khấn cấp. Thực tế cho thấy hạ tuần tháng 4-1975, Quốc hội Mỹ đã bác bỏ tất cả các khoản viện trợ cho chiến tranh VN. Đảng Dân chủ đã thắng lớn trong cuộc bầu cử Hạ viện tháng 11-1974, họ chiếm 66.9% Hạ viện, gồm nhiều người mới chủ trương chống chiến tranh tới cùng và bác bỏ tất cả mọi ngân khoản quân viện cho Đông Dương. Trên thực tế tại chính trường Mỹ năm 1975 số người ủng hộ chiến tranh VN chỉ còn vài người: Tướng Weyand, Kissinger và TT Ford. Ngay tại nội bộ Hành pháp, các cố vấn, phụ tá của Tổng thống cũng đã căn ngăn ông đừng can thiệp vào cuộc chiến sa lầy. Quốc hội thù nghịch như ta đã biết thái độ của họ rõ ràng là “Sống chết mặc bay”.
Cựu Đại Tướng Cao văn Viên cho biết
“Nghĩ lại việc đã qua, câu hỏi là miền Nam có sống sót nếu chúng ta không áp dụng kế hoạch tái phối trí lực lượng quân sự hay không. Bây giờ nói thì sự đã rồi, nhưng tác giả tin miền nam có nhiều cơ hội hơn nếu không thực hiện tái phối trí. Tinh thần chiến đấu của quân đội VNCH và nhân dân bị hủy diệt là nguyên nhân trực tiếp của kế hoạch tái phố trí. Không có kế hoạch đó, có lẽ quân đội của chúng ta không tan rã nhanh như vậy. Chúng ta có thể mất đi một phần của sư đoàn 23 BB nhưng tất cả những đơn vị khác vẫn còn nguyên vẹn. Dù lấy được ban Mê Thuột Cộng quân vẫn phải ngừng lại, suy tính kỹ trước khi mở một mặt trận mới ở vùng II. Vùng II vẫn còn Sư đoàn 22BB, cộng thêm với một lực lượng tương đương với 2 sư đoàn bộ binh và hai sư đoàn không quân. Vùng II có đủ quân nhu và tiếp liệu để chiến đấu đến hết mùa khô. Không có kế hoạch tái phối trí, tác giả không nghĩ Cộng Sản có thể thành công, đánh nhanh và chiếm được nhiều đất như họ đã làm ở vùng I. Tình hình quân sự nhân lực của VNCH vẫn gặp những khó khăn dai dẳng như trước khi có quyết định tái phối trí: thiếu thốn về quận viện; không còn nhân lực để lập thêm những đơn vị tổng trừ bị. Nhưng ít ra quân đội VNCH sẽ không tan rã nhanh chóng như khi quyết định tái phối trí được thực hiện”.
Những Ngày Cuối của VNCH, trang 134
Theo ông Cao Văn Viên sau khi mất Ban Mê Thuột ngày 13-3-1975 lực lượng VNCH tại Quân khu 2 còn tương đối đầy đủ, nếu TT Thiệu không cho rút khỏi Pleiku, Kontum miền Nam sẽ có nhiều cơ hội hơn. Sự thực thì chẳng có cơ hội nào cả vì cuộc bầu cử Hạ viện Mỹ thượng tuần tháng 11-1974 đã là bản án tử hình cho cả Đông Dương. Đảng Dân chủ phản chiến đã chiếm đại đa số tại Hạ viện 66.9%, họ nắm giữ túi tiền, họ nắm giữ sinh mạng của cả Đông Dương. Hạ viện đã hai lần trả lời miền Nam xin viện trợ bổ túc tháng 3-1975 và viện trợ khẩn cấp tháng 4-1975 một cách thẳng thừng “Sống chết mặc bay”.
Tôi xin ngược dòng thời gian một chút để vấn đề được sáng tỏ hơn. TT Nixon thắng cử nhiệm kỳ hai tháng 11-1972 với 60% số phiếu bầu, hơn đối thủ McGovern 18 triệu phiếu phổ thông, 530 phiếu cử tri đoàn. Người ta ủng hộ ông vì ông sắp mang lại hòa bình, nhưng họ chống lại ông vì ông còn tiếp tục ủng hộ cuộc chiến VN. Từ sau Hiệp định Paris đảng đối lập và phản chiến tiếp tục chống Nixon. Sự thực ngay từ sau trận Mậu thân khi số người ủng hộ cuộc chiến tụt thang nhanh chóng, số chống chiến tranh lên cao, khi ấy số phận Đông Dương đã bắt đầu ngắc ngoải. Sang năm 1969 khi Nixon lên nhậm chức Tổng thống phong trào phản chiến càng dữ dội hơn trước. Từ 1969, 70..biểu tình tiến tới giai đoạn bạo động, đổ máu, sinh viên bắn cảnh sát, bắn súng đốt nhà, đập cửa kính, ném bom lớp học (No more Vietnams, trang 126-127). Họ chán ngấy cuộc chiến tranh Đông Dương.
Đứng trước sự chống đối ngày càng mạnh của phong trào phản chiến, họ đòi phải ra khỏi cuộc chiến Đông Dương ngay. TT Nixon và Kissinger, người phụ tá cố tìm lối thoát, mở cuộc tấn công qua biên giới Mên, Lào…rút quân về nước để xoa dịu sự chống đối. Nhưng thực ra tình trạng ngày càng bi đát, mọi cố gắng của Nixon và Kissinger cũng chỉ là giải pháp tạm thời, vá víu, nói khác đi chỉ giúp cho Đông Dương và miền Nam sống thêm ngày nào hay ngày nấy.
Sự ngoan cố của Hà nội đã khiến hòa đàm Paris kéo dài tới bốn năm. Mặc dù Nixon đã dội 20 ngàn tấn bom lên Hà Nội, Hải phòng cuối năm 1972 nhưng ông vẫn phải nhượng bộ BV để cho họ được ở lại miền Nam vì bị Quốc hội thúc ép phải ký. Lập pháp luôn hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ VNCH để đánh đổi lấy tù binh Mỹ. Trước khi ký Hiệp định, các Trưởng ban tại Quốc hội hứa hẹn tiếp tục viện trợ nhưng ký xong, họ trở mặt cắt giảm viện trợ dần dần và trói tay hành pháp. Tháng 6-1973 Quốc hội ra luật cắt bỏ mọi ngân khoản cho việc oanh tạc cũng như mọi hoạt động quân sự khác tại Đông Dương, có hiệu lực từ 15-8-1973. Họ còn đi xa hơn thế, ngày 7-11-1973 ra luật War Power Act hạn chế quyền Tổng thống, trước khi gửi quân ra ngoại quốc tham chiến, TT phải hỏi Quốc hội.
Trói tay hành pháp bằng các luật mới như trên chưa đủ, người ta sợ Nixon sẽ làm liều, làm ẩu cho ném bom B-52 khi BV vi phạm Hiệp định. Quốc hội thù nghịch và phong trào chống đối tìm cách loại bỏ Nixon vì ông vẫn là trở ngại hòa bình. Mặc dù đã ký Hiệp định ngưng bắn nhưng họ thừa biết Nixon và Kissinger vẫn tiếp tục chiến tranh dưới hình thức cưỡng bách thi hành Hiệp định (to enforce the agreement), trừng trị mọi vi phạm của CS bằng B-52, hai người đã lên kế hoạch nghiền nát BV. Khi Nixon đã mang lại hòa bình, họ chống đối hành pháp mạnh hơn trước, hết chống chiến tranh họ quay ra vụ Watergate từ tháng 4-1973, cho tới ngày 8-8-1974 Nixon phải từ chức. Vài tháng sau, 7-11-1974, họ hả hê kéo nhau vào Hạ Viện, Dân chủ phản chiến từ 242 ghế (55.6%) năm 1972 tăng lên 291ghế (66.9%) năm 1974, Cộng hòa giảm từ 192 ghế (44.2%) năm 1972 xuống còn 144 ghế (33.1%) năm 1974.
Nay những người Dân chủ mới, kiên quyết chống chiến tranh Đông Dương đã vào Hạ Viện, số phận của ba nước Việt Miên Lào đã được quyết định rồi. Họ chống bất cứ khoản viện trợ nào cho cuộc chiến sa lầy. Tháng 3-1975, và tháng 4-1975, hai khoản viện trợ Bổ túc 300 triệu và viện trợ Khẩn cấp 722 triệu của VNCH đã bị bác bỏ không thương tiếc.
Trở lại vấn đề đang bàn trên đây, dù TT Thiệu cho rút khỏi Cao nguyên hay không cũng không tránh khỏi sự sụp đổ sau cùng, không bao giờ miền Nam VN còn hy vọng được Hoa Kỳ cấp viện trợ để tiếp tục chống xâm lăng. Ngay cả TT Nixon cũng không thể quay ngược bánh xe lịch sử, người Mỹ đã quá ghê tởm cuộc chiến tranh bẩn thỉu của Hà Nội.
Tác giả Walter Isaacson trong Kissinger, A Biography trang 487có nói
“Một khi người Mỹ đã tìm được con đường ra khỏi Việt Nam, cả Quốc hội lẫn người dân đều đã không muốn can thiệp trở lại, dù có hay không vụ Watergate. . .
. . . Bất kể có hay không có vụ Watergate, người Mỹ không còn muốn dính dáng gì với Việt Nam”
(Once America had found a way to disengage from Vietnam, neither the Congress nor public would have permitted a reengagement, with or without Watergate. . .
. . . Irrespective of Watergate, Americans wanted nothing more to do with Vietnam).
Trọng Đạt
————————————————–
Tham Khảo
Phạm Huấn: Cuộc Triệt Thoái Cao Nguyên 1975, Cali 1987
Cao Văn viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography 2003.
Hoàng Lạc, Hà Mai Việt: Việt Nam 1954-1975, Những Sự Thật Chưa Hề Nhắc Tới Texas 1990.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006
Dương Đình Lập: Cuộc Tổng Tiến Công Và Nổi dậy Mùa Xuân 1975, Nhà xuất bản Tổng Hợp T.P.H.C.M 2005
Phạm Bá Hoa: Cuộc Rút Quân Trên Đường Số 7B, Người Việt Dallas 19-3-2004
Hồi Ký Của Trung Uý D: Những Ngày Cuối Cùng Trên Liên Tỉnh Lộ 7B, Người Việt Dallas, 25-3-2005
Henry Kissinger: Years of Renewal- Simon & Schuster 1999
Walter Isaacson: Kissinger A Biography Simon & Schuster 1992.
Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam-The Free press 2001
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985
Marvin Kalb and Bernard Kalb: Kissinger; Little, Brown and company 1974
The Word Almanac Of The Vietnam War: John S. Bowman – General Editor, A Bison-book 1985
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
TT Nguyễn Văn Thiệu ký Hiệp Định Paris 1.1973
Cuộc Hòa đàm Paris được khai mạc vào ngày 10-5-1968 và kết thúc bằng Hiệp định Hiệp Định Chấm dứt Chiến Tranh và Phục Hồi Hòa Bình tại Việt Nam (Agreement on Ending the War and Restoring peace in Vietnam) ký kết ngày 27-1-1973 giữa Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng Hòa, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam (Mặt trận giải phóng). Phía Cộng Sản Bắc Việt phát biểu “đó là kết quả của cuộc thương thuyết dài nhất thế kỷ, nó kéo dài 4 năm và chín tháng, gồm 202 phiên họp công khai và 24 phiên họp kín (1)
Có lẽ đây là một Hội nghị dài nhất trong lịch sử ngoại giao quốc tế, kéo dài tám tháng dưới nhiệm kỳ Tổng thống Johnson (tháng 5-1968 tới tháng 12-1969) sang hết nhiệm kỳ đầu của Tổng Thống Nixon (1969 -1972) và một tuần trong nhiệm kỳ hai của ông (từ 21 tới 27-1-1973). Nixon và Kissinger mới đầu tưởng trong một năm sẽ giải quyết được nhưng không ngờ bị sa lầy trong chính sách “trường kỳ đàm phán” của Hà Nội, nó rập khuôn chiến lược “trường kỳ kháng chiên” của Trường Chinh. Đây là một đường lối thương thuyết dai như đỉa đói cắn cầy, mục đích làm cho đối phương phải kinh tởm và bỏ cuộc.
Việc thương thuyết thực ra do mật đàm, đi đêm giữa Tiến sĩ Henry Kissinger, Phụ tá TT Nixon và Lê Đức Thọ, Cố vấn đặc biệt của CSBV bắt đầu từ 4-8-1969. những năm 1969, 1970, 1971 cuộc hòa đàm không tiến triển vì CSBV khăng khăng đòi Mỹ đơn phương rút quân, loại bỏ Nguyễn Văn Thiệu, cắt viện trợ VNCH, trung lập hóa miền Nam… nghĩa là ra đòi Mỹ đầu hàng không điều kiện. Sở dĩ họ ngoan cố như vậy vì dựa vào sự chống đối của người dân và Quốc hội Mỹ.
Hòa đàm Paris chỉ thực sự biến chuyển bắt đầu từ tháng 10-1972 cho tới tháng 1-1973. Cộng quân thảm bại trong trận tổng tấn công 1972 (Mùa hè đỏ lửa), khoảng 100,000 cán binh bị giết 700 xe tăng bị bắn cháy (2). Ngoài ra phần vì BV muốn ký sớm trước cuộc bầu cử Tổng thống ngày 7-11-1972, họ biết chắc Nixon sẽ tái đắc cử, khi ấy ông ta sẽ cứng rắn hơn.
Tôi xin chia làm hai giai đoạn
Từ tháng 10 tới tháng 12-1972
Tháng 10 -1972 Hà Nội nhượng bộ gần hết những khoản chính như không đòi lật đổ Thiệu, không đòi Liên hiệp, cắt viện trợ miền nam… đổi lại Cộng quân được ở lại miền nam VN. Ngày 9-10-1972 hai bên Mỹ và BV ký bản Dự thảo, ngày 11-10 Kissinger về Mỹ báo tin cho Nixon, ngày 19 ông sang Sài Gòn để bàn với TT Thiệu, sau đó sẽ đi Hà Nội, dự trù sẽ ký chính thức vào ngày 25, 26 hai tuần trước bầu cử Tổng thống Mỹ 7-11-1972. Ngày 19 Tiến sĩ Kissinger sang Sài Gòn đưa bản Dự thảo cho ông Thiệu coi và hy vọng sau đó ký kết.
Kissinger vô cùng phấn khởi y như mở cờ trong bụng, Hiệp định ký trước ngày bầu cử sẽ đưa ông lên tột đỉnh danh vọng, tha hồ mà khoe khoang công trạng đã giúp cho Nixon đắc cử vẻ vang.
Quá sốt sắng với bản Hiệp định, Kissinger đã đánh giá thấp Thiệu, tưởng Mỹ nói gì Thiệu cũng phải nghe (3) vả lại lần này chính phủ Thiệu không bị loại bỏ vì BV đã nhượng bộ không đòi ông từ chức. Trái với mong đợi của Kissinger, VNCH chống đối bản Dự Thảo dữ dội, Thiệu nhất quyết đòi sửa nhiều điều khoản nhất là Cộng quân phải rút hết về Bắc (4)
Trước ngày về Mỹ, Kissinger đánh điện cho Nixon nói VNCH gây trở ngại và đề nghị Mỹ ký riêng với Hà Nội không cần miền nam VN nhưng trước sự ngạc nhiên của ông ta, Tổng thống Mỹ không đồng ý. Nixon vốn không ưa gì người phụ tá này, thừa biết tham vọng của Kissinger muốn ký cho nhanh trước bầu cử để khoe công trạng um lên (5). Qua thăm dò Nixon đả vượt quá xa đối thủ McGovern nên chẳng cần ký trước bầu cử để phải chịu ơn Kissinger và ông ủng hộ TT Thiệu bác bỏ bản Dự thảo tháng 10.
Theo George Moss (6) Nixon đồng ý với Thiệu chống bản Dự thảo này, ông cũng biết cựu Tư lệnh MACV Westmoreland và giới Lãnh đạo quân sự Mỹ chống Hiệp định nên ông cũng không cho ký.
Đầu tháng 11 tại Hòa đàm Paris Kissinger đưa ra 69 điểm đòi sửa chữa theo yêu cầu của VNCH, đòi BV phải rút hết quân, Kissinger cũng đe dọa BV nói Nixon sẽ đắc cử nay mai, ông ta sẽ cứng rắn hơn. Hà Nội không tin như vậy, họ vẫn thường nghĩ Thiệu chỉ là bù nhìn tay sai, Mỹ bảo sao nghe vậy, chuyện này chắc do Mỹ lươn lẹo bầy ra. Thọ bác bỏ yêu cầu này và lại đòi loại bỏ Thiệu như trước.
Nixon đại thắng trong cuộc bầu cử 7-11, tái đắc cử với 520 phiếu cử tri đoàn (trên 49 tiểu bang, chiếm tỷ lệ 96.65% tổng số). Đối thủ McGovern đảng Dân chủ được 17 phiếu cử tri đoàn của bang Massachusetts và District of Columbia (tỷ lệ 3.16%)
Nixon được 47,168,710 phiếu phổ thông, tỷ lệ 60.7%, McGovern 29,173,222 phiếu, tỷ lệ 37.5%, đây là lần thắng lớn thứ tư (landslide) trong lịch sử Mỹ.
Cuối tháng 11 ông vội viện trợ cho VNCH khoảng một tỷ quân viện vì sau khi ký Hiệp định sẽ chỉ được viện trợ trên căn bản một đổi một (7). Hai đợt viện trợ Enhance và Enhance Plus gồm nhiều nhất là máy bay, hơn 600 phi cơ trong đó có hơn 200 phản lực chiến đấu và trên 300 trực thăng. Nhờ đó Không quân VNCH đứng thứ tư trên thế giới về số lượng tổng cộng 2,075 máy bay đủ các loại (8). Năm 1974, 1975 sau những đợt cắt giảm viện trợ của Quốc hội, số máy bay này phần nhiều nằm ụ vì thiếu cơ phận thay thế và không đủ săng để cất cánh. (9)
Tháng 11 và 12 năm 1972 ông Thiệu mở chiến dịch lên án Kissinger và Hành pháp Mỹ ép buộc miền nam ký Hiệp ước bất bình đẳng và nêu rõ chủ trương không đầu hàng CS, không cắt đất cho CS, không trung lập liên hiệp….TT Nixon tức giận BV ngoan cố và cũng khó chịu về sự chống đối Dự Thảo kéo dài của VNCH
Giữa tháng 11-1972 Nixon đã gửi nhiều thư hứa hẹn vói Thiệu sẽ trừng trị mọi vi phạm của địch:
“Tôi xin cam kết với ông nếu Hà Nội vi phạm Hiệp định , tôi sẽ giáng trả họ nhanh chóng và ác liệt.”(10)
Tháng 11 cuộc thương thuyết bế tắc, sang tháng 12 tình hình còn bi đát hơn, Hà Nội để lộ âm mưu phá hoại đàm phán chờ phiên họp mới của Quốc hội Mỹ đầu năm 1973, họ tin là Lập pháp sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh buộc chính phủ phải rút quân và cắt viện trợ quân sự, miền nam sẽ không thể tồn tại (11). Hòa đàm tan vỡ ngày 14-12, Lê đức Thọ bỏ Hội nghị về Hà Nội không hẹn ngày trở lại
Nixon phẫn nộ chồng chất từ bốn năm qua do sự ngoan cố của Hà Nội (12) và phải gấp rút đưa CSVN trở lại bàn Hội nghị để cứu miền nam VN, ông đã cho oanh tạc Hà Nội, Hải Phòng bằng B-52 kéo dài từ 18 cho tới 29-12. Chiến dịch xử dụng 207 pháo đài bay và hàng nghìn máy bay chiến thuật (luân phiên) ném 20,000 tấn bom xuống các mục tiêu quân sự, kinh tế như kho hàng, nhà máy điện, ga xe lửa, kho nhiên liệu, phi trường …Mỹ bị thiệt hại 27 máy bay trong đó có 15 chiếc B-52
Chiến dịch mặc dù bị dư luận trong nước và quốc tế chống đối nhưng đã có kết quả tốt, đưa Hà Nội trở lại bàn hội nghi vào đầu tháng 1-1973, cứu được miền nam.
Tháng 1-1973
Phía VNCH, TT Thiệu vẫn tiếp tục chống đối ký kết Hiệp định mà ông cho là bất bình đẳng, đòi “Cộng sản BV phải rút hết về Bắc”
Đảng Dân chủ chiếm đa số tại Quốc hội hăm dọa ra luật chấm dứt chiến tranh nếu Hiệp định bị trở ngại. Ngày 2-1-1973 Hạ viện Dân chủ bầu nội bộ với lệ 154 thuận và 75 chống để cắt hết viện trợ mọi hoạt động quân sự ở Đông dương vừa khi đã rút quân về nước và lấy lại tù binh. Hai ngày sau, Dân chủ Thượng viện bầu nội bộ cũng thông qua Dự luật tương tự với số phiếu 36 thuận và 12 chống. (13)
Trận oanh tạc long trời lở đất đã khiến cho BV hết hồn nhất là thấy hai đàn anh vĩ đại Nga, Trung Cộng chỉ phản đối xuông không cứu được đàn em. Bộ Chính trị CSVN hốt hoảng, hồn vía lên mây xanh nghĩ tới trận kế tiếp nên vội chấp nhận trở lại bàn Hội nghị.
Ngày 6-1 Lê Đức Thọ trở lại Paris, hôm sau Kissinger cũng đến. Hai bên đều có thiện chí giải quyết để cùng đạt Hiệp định ngưng bắn. Phía Mỹ cũng muốn ký cho nhanh vì sợ Quốc hội ra luật chấm dứt chiến tranh nều Hiệp định trở ngại. Ngày 8 và 9 -1 hai bên thảo luận tốt đẹp ngày 11 bên bàn thủ tục ký kết
Ngày 7-1 tại Sài gòn ông Thiệu chưa trả lời, ngày 14-1 Nixon cử Tướng Haig sang Sài Gòn để thuyết phục Thiệu, ông ta mang thư của Nixon cho biết
“ Tôi đã quyết định ký chính thức ngày 27-1-1973 tại Paris, nếu cần Mỹ sẽ ký một mình, trong trường hợp này tôi sẽ nói VNCH gây trở ngại hòa bình, kết quả là sẽ bị cắt viện trợ kinh tế quân sự và sẽ có thay đổi trong chính phủ của ông”. Nixon vừa cây gậy vừa cà rốt, ông ta cũng tháu cáy Thiệu, dọa cho đảo chính (14). Ngày 17-1 Thiệu đòi sửa một số điều khoản nhưng Nixon từ chối.
TT Nixon đã gửi nhiều thư cam kết hứa hẹn với ông Thiệu từ mấy tháng nay, những lời hứa này không có giá trị pháp lý đối với nước Mỹ vì nó không được đưa ra Quốc hội. Đó chỉ là lời húa riêng giữa cá nhân hai ông Tổng thống (tôi đã viết riêng một bài về vấn đề này).
Ngày 20-1 ông Thiệu cử Tổng trưởng ngoại giao Trân Văn Lắm đi Paris, TS Kissinger nói là một cách để đỡ mất mặt, ông này xỏ xiên vì rất cay cú TT Thiệu, tác giả Mark Clodfelter (15) cho là sự trì hoãn của TT Thiệu để giữ thể diện hơn là chống đối. Thật ra ông Thiệu quyết tâm chống đối chứ không phải để giữ thể diện mà vì quá sợ hãi bản Hiệp định.
Clodfelter nói mặc dù nếu không có trận oanh tạc Giáng Sinh ta không biết Quốc hội có cắt viện trợ VNCH hay không, nhưng sau trận oanh tạc Lập pháp phẫn nộ và việc cắt viện trợ miền Nam chắc chắn sẽ xẩy ra nếu TT Thiệu từ chối ký kết Hiệp định. Nhà lãnh đạo miền nam không dám liều lĩnh như vậy, không có viện trợ, không thể sống còn. Ông ta đồng ý ký nhưng sau hạn chót của Nixon (16)
Theo Davidson, TT Nixon cử Tướng Haig sang Saigon giữa tháng 1-1973 nói với TT Thiệu mặc dù Hiệp định không hoản hảo nhưng trong tình thế này phải chấp nhận. Ông hứa sẽ bảo đảm bằng vũ lực nếu địch vi phạm và hứa thúc đẩy Quốc hội tiếp tục viện trợ VNCH đồng thời cũng hăm dọa sẽ ký riêng với Hà Nội nếu cần và sẽ cắt viện trợ miền Nam. Đứng trước cái gậy to, củ cà rốt bé, Thiệu đồng ý ký (17).
George Herring nói Nixon hứa hẹn Thiệu sẽ bảo đảm thi hành Hiệp định, tiếp tục viện trợ miền nam VN và hăm dọa sẽ cắt viện trợ cũng như ký riêng, cũng tháu cáy Thiệu dọa đảo chinh. Nhà lãnh đạo Sài Gòn đành chịu thua, ông không nói rõ là chịu ký mà chỉ cho biết không chống đối nữa (18)
Nhận xét và kết luận
Cuối cùng TT Nixon ký Hiệp định Paris với Hà Nội ngày 27-1-1973, nó cũng giống như bản Dự thảo từ tháng 10-1972 (trước đó ba tháng), một điểm quan trọng là BV vẫn đóng quân tại miền nam VN. Bản Dự thảo tháng 10 và Hiệp định tháng 1-1973 có khác nhau chút xíu mà các nhà sử gia Mỹ gọi là đồ trang sức (cosmetic) cho vui. Trận oanh tạc long trời lở đất với 20,000 tấn bom và cuộc thảo luận kéo dài hơn bốn năm cuối cùng vẫn không đuổi được Cộng quân rút về Bắc
Bản Dự thảo tháng 10-1972 mà Kissinger muốn ký cho nhanh để Nixon đắc cử rồi sẽ khoe khoang công trạng ầm ĩ. Nixon không muốn để Kissinger lên quá, qua mặt ông vì thế ông đã ủng hộ TT Thiệu chống bản Dự thảo này. Nixon ủng hộ Thiệu phần vì muốn khống chế tham vọng Kissinger và vì giới Lãnh đạo quân sự chống Dự thảo. Mặc dù thắng lớn về ngoại giao nhưng hai nhà lãnh đạo Kissinger và Nixon nói xấu nhau, dành khoe khoang công trạng (19).
Rồi tình hình ngày một khó khăn, Quốc hội thúc ép, đầu tháng 1-1973 Lưỡng viện Dân chủ bầu nội bộ để cảnh cáo Hành pháp cũng như VNCH nếu ngăn trở Hiệp định họ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, cắt viện trợ miền nam VN. Lúc này Nixon không thể ủng hộ Thiệu được nữa mà đòi Thiệu ký. Cuối cùng ông Thiệu chấp thuận ký Hiệp định Paris không phải do Nixon ép buộc, đe dọa mà vì ông biết chắc sẽ bị Quốc hội Dân chủ thẳng tay bức tử như Clodfelter đã nói trên. TT Thiệu nhận định như vậy chứ không phải ông không hay biết gì như nhiều người lầm tưởng.
Suốt thời kỳ chiến tranh VN, đảng Dân chủ luôn chiếm đa số tại Quốc hội, năm 1972 họ nắm giữ 56% Hạ viện và 57% Thượng viện, DC chống chiến tranh dữ dội. TS Kissinger than phiền trong hồi ký về đảng Dân chủ (20), ông ta cho biết DC đã gây ra cuộc chiến sa lầy tại VN với nửa triệu quân do TT Johnson đưa vào. Nay họ trở mặt chống chiến tranh gây nhiều khó khăn cho Hành pháp.
Thật vậy, ỷ vào quyền lực của mình tại Lưỡng viện Quốc hội, họ luôn hăm dọa cắt hết mọi ngân khoản chiến tranh để đổi lấy hòa bình dù phải đầu hàng CS. Những năm 1964, 1965 Hành pháp DC tích cực tham chiến đưa quân vào VN vì theo thăm dò tỷ lệ ủng hộ người dân rất cao (60%, 70%) nay người dân quá chán chiến tranh, họ vội trở cờ hùa theo phong trào phản chiến. Với tinh thần cơ hội chủ nghĩa, DC sẵn sàng làm bất cứ chuyện gì để lấy lòng dân thủ lợi.
Nhiều người than phiền ký kết Hiệp định Paris như vậy coi như đã chịu thua, nhưng thà ký còn hy vọng sống thêm vài năm hơn là bị người ta bức tử vào thời điểm này. Giữa hai cái cùng tồi tệ chỉ có thể lựa cái bớt xấu hơn và ông Thiệu đã sáng suốt vào giờ thứ 25.
Từ hạ tuần tháng 10-1972 cho tới hạ tuần tháng 1-1973, ông Thiệu nhất quyết đòi CSBV phải rút hết về Bắc, TT Nixon đã ủng hộ ông một thời gian nhưng sau đó cũng bất lực. Nixon nói nếu đạt thỏa hiệp đòi BV trả lại đất cho VNCH thì họ sẽ không ký Hiệp định. Có nghĩa là không thể nào đòi họ rút về Bắc (21). TT Nixon đã khuyên ông Thiệu không nên quan tâm việc quân địch còn đóng tại một số vùng dân cư thưa thớt, mà vấn đề quan trọng ở chỗ Quốc hội Mỹ có tiếp tục viện trợ và ủng hộ chúng ta hay không (22) Đúng như Nixon đã tiên đoán, năm 1975 Sài Gòn sụp đổ không phải vì BV còn đóng quân ở lại mà vì Quốc hội đã cắt viện trợ bức tử miền nam.
Chiến dịch vận động của ông Thiệu để có một Hiệp định bình đẳng hơn và giữ thể diện quốc gia mới đầu có ý nghĩa nhưng sau dần dần đã đi quá đà nhất là từ đầu tháng 1-1973. Nó gây chia rẽ trầm trọng giữa Sài Gòn và Hoa Thịnh Đốn mà Hà Nội đã khai thác triệt để tại bàn Hội nghị, họ bác bỏ tất cả những đề nghị sửa lại nhiều điểm của VNCH do Kissinger đưa ra.
Ông Thiệu đã không quan tâm đến tình thế bấp bênh khi mà ngoài CSBV ra, miên nam VN còn phải đối diện với một kẻ thù vô cùng nguy hiểm: Quốc hội Dân chủ thù nghịch (hostile Congress) chỉ chờ cơ hội để sát hại VNCH. Gió đã đổi chiều, đối với Quốc hội DC Mỹ, Đông Dương nay không còn là tiền đồn chống Cộng như ông Thiệu tưởng, người ta đã bắt tay được Trung Cộng và hòa với Nga từ hơn nửa năm về trước. Thuyết Domino không còn ý nghĩa, nay họ chỉ muốn hòa bình, lấy lại tù binh. Nói khác đi sinh mạng của 580 người tù binh Mỹ mới thực sự quan trọng vào lúc này, sinh mạng của cả Đông dương không nghĩa lý gì.
Ở cương vị nhà lãnh đạo, ông Thiệu hiểu rõ thực trạng vấn đề hơn ai hết, nhưng hai năm sau vào giữa tháng 3-1975, ông ban lệnh rút bỏ Pleiku giả vờ thua chạy để tháu cáy Mỹ. Ngay như Đại tá tham mưu trưởng Quân đoàn II cũng nghi ngờ ông Thiệu vờ thua chạy đưa tới hậu quả thảm khốc khiến bao nhiêu người mạng vong trong cơn khói lửa.
Chiến dịch chống bản Hiệp định bất bình đẳng mà ông Thiệu nhằm vào Hành pháp tháng 1-1973 là một sai lầm lớn vì ngoài Nixon ra, tại Mỹ hầu như không còn ai ủng hộ cuộc chiến tranh này, người ta đều khao khát hòa bình. Nixon đã nói với Nguyễn Phú Đức (đại diện VNCH) cuối tháng 11 vừa qua: không ai hết lòng với sự sống còn của miền nam VN bằng ông (23). Nixon-Kissinger cũng đã có lần nói với Thiệu rồi ông sẽ thấy ai là bạn, ai là thù. Chống lại Hành pháp lúc này là thất sách trong khi chúng ta chỉ còn dựa vào họ, vả lại Nixon phải chạy đua với thời gian (we were racing the clock) vì đã hứa sẽ mang lại hòa bình trong nhiệm kỳ, mà nay đã sang nhiệm kỳ mới.
Cho tới khi sự nghiệp chính trị của TT Nixon phá sản, nhiều người Việt kể cả ông Thiệu vẫn chưa tỉnh cơn mê, vẫn còn oán trách người Mỹ không giữ lời cam kết. Thực ra những lời “cam kết chui” mà Nixon-Kissinger dấu không đưa ra Quốc hội đã khiến cho họ phẫn nộ khi được biết vào tháng 4-1975 và đã thẳng tay với VNCH.
Nửa năm sau Hiệp định Paris, Quốc hội Dân chủ ra luật cắt hết mọi ngân khoản dành cho chiến tranh Đông Dương của Hành pháp. Nixon không còn quyền hành để bảo vệ đồng minh tại nơi đây.
Viễn tượng sụp không còn xa nhưng dù sao việc ký kết Hiệp định Paris tháng 1-1973 đã giúp Đông dương sống còn thêm được vài năm nữa.
Trọng Đạt
nguon
———————————————–
Chú thích
(1) Lewis Sorley: A Better War, The Unexamined Victories and Final Tragedy of America’s Last Years In Vietnam trang 361
(2) Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975 trang 587
(3) George C. Herring: America’s Longest War, The United States and Vietnam, 1950-1975 trang 277
(4) Larry Berman: No Peace No Honor, Nixon, Kissinger and Betrayal in Vietnam- chapter 9 -Thieu kills the deal trang 160)
(5) George C. Herring: America’s Longest War trang 277
(6) George Donelson Moss: Vietnam, An American Ordeal trang 365
(7) Nixon: No More Vietnams trang 170, 171
(8) Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập trang 877
(9) Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà trang 82-88
(10) No More Vietnams trang 156
(11) sách kể trên trang 170 “to legislate an end to our involment”
(12) America’s Longest War trang 280
(13) Nixon: No More VN trang 169, 170; Larry Berman: No Peace No Honor trang 221
(14) Mark Clodfelter: The Limits of Air Power trang 200
(15) sách kể trên trang 200
(16) sách kể trên trang 200
(17) Phillip B. Davidson: Vietnam at War The History 1946-1975 trang 730
(18) America’s Longest War trang 281, 282
(19) Sách kể trên trang 283
(20) Henry Kissinger: White House Years trang 227
(21) Nixon: No More Vietnams trang 152 “But one major issue we could not budge the North Vietnamese from their positions: They refused to withdraw their forces from South Vietnam”
(22) Sách kể trên trang 155
(23) Larry Berman: No Peace No Honor trang 200
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
Hiệp Định Paris, một bản án tử hình?
Lê Đức Thọ và H. Kissinger bắt tay sau khi ký kết Hiệp Định Paris
Hiệp định Paris khai mạc vào ngày 10-5-1968 dưới thời Tổng thống Johnson. Tổng thống Nixon nhậm chức đầu năm 1969 tiếp tục cuộc đàm phán cho tới bốn năm sau mới ký kết vào ngày 27-1-1973. Mới đầu Nixon tưởng cuộc hoà đàm sẽ kết thúc năm 1969 nhưng không ngờ nó kéo dài cho tới 4 năm sau. Ông kể lại trong cuốn No More Vietnams trang 126: Những năm 1965, 66, 67, 68 dưới thời Johnson-McNamara phong trào phản chiến ôn hoà, chỉ có biểu tình hoặc đốt thẻ trưng binh nhưng sang 1969, khi Nixon lên cầm quyền phong trào đã biến thành bạo động dữ dội. Sinh viên bắn cảnh sát, dùng dao uy hiếp ban giám đốc nhà trường, bắn súng, đốt nhà, ném bom lớp học, bạo động lan ra toàn quốc.
Năm 1970 Mỹ yểm trợ cho VNCH hành quân sang Cambodia khiến cho phong trào bạo động lan ra toàn quốc dữ dội, có đổ máu, năm 1971 hành quân sang Hạ Lào. Nixon cho biết sở dĩ ông cho hành quân đánh vào các căn cứ bên kia biên giới để phá hủy hậu cần CS, ngăn chận những đợt tấn công của họ trong năm tới để có thể rút quân và giúp VNCH bảo vệ lãnh thổ, những người phản chiến đã phá hoại chương trình của ông. Nixon cho biết vì phản chiến làm rối loạn đất nước đã khiến cho CSBV lần khân không chịu ký Hiệp định Paris, họ hy vọng nhiều vào phản chiến. Phong trào phản chiến và Quốc hội chống đối ông đã khiến cho cuộc hoà đàm bế tắc trong bốn năm liền.
Cho tới 26-10-1972, Kissinger họp báo lạc quan tuyến bố,
“Chúng ta có thể tin tưởng hoà bình đã ở trong tầm tay, chúng ta có thể tin rằng đã thấy hoà ước”
(“We believe that peace is at hand.We believe that an agreement is within sight” – No More Vietnams, trang 154).
Cũng trong sách đã dẫn trang 142, Nixon cho biết từ năm 1969 ông đã phải đương đầu với mối nguy là Quốc Hội có thể ra luật chấm dứt chiến tranh Việt nam. Các Dân biểu, Thượng nghị sĩ đã đưa nghị quyết buộc Tổng thống rút hết quân về nước để đổi lấy tù binh Mỹ còn bị Bắc Việt giam giữ. Năm 1972 Thượng viện đã tiến hành việc này, tại Hạ Viện hội gần đủ số phiếu thuận. Nhưng vì Chính phủ đã thông báo việc rút quân khiến những người ủng hộ chiến tranh cho thấy chứng cớ hiển nhiên cuộc chiến đã suy giảm nhờ đó dự luật không thành hình, VNCH thoát chết từ năm 1972.
(Since 1969, we had been faced with the danger of Congress legislating an end to our involvement. Antiwar Senators and Congressmen had been introducing resolutions to force us to trade a total withdrawal of our troops for the return of our POWs. By 1972, the Senate was regularly passing these measures, and the votes in the House were getting close. We were able to prevent the passage of these bills only because our withdrawal announcements provided those whose support for the war was wavering with tangible evidence that our involvement was winding down).
Cuối tháng 10-1972, Kissinger gặp Tổng thống Thiệu để bàn về việc ký kết Hiệp định nhưng ông Thiệu không đồng ý, đòi sửa một số điều khoản trong đó BV phải rút quân về Bắc. TT Nixon cho ông Thiệu biết nếu miền Nam không chịu ký kết Hiệp định, gây trở ngại cho hoà đàm thì Quốc Hội sẵn sàng ra luật chấm dứt chiến tranh tháng 1-1973, cắt đứt viện trợ bỏ rơi VNCH để đánh đổi lấy khoảng 580 tù binh Mỹ tại Hà Nội. Nixon cho biết.
“Sự tồn tại của miền nam Việt Nam không phụ thuộc vào việc quân địch còn đóng tại một số vùng dân cư thưa thớt. Nó phụ thuộc vào việc Nước Mỹ cưỡng bách thi hành Hiệp định cùng với việc tiếp tục viện trợ và với sự đe doạ trừng trị bằng vũ lực. Điều đó chỉ có được nếu Sài Gòn được Quốc Hội ủng hộ. Nếu chúng ta không giải quyết cuộc chiến nhanh chóng, Quốc Hội có thể biểu quyết đạo luật chấm dứt chiến tranh vào tháng 1. Nếu Quốc hội kết luận rằng miền Nam Việt nam gây trở ngại việc ký kết, việc này có thể khiến ta (Hành pháp) không giúp được đồng minh nếu cần. Tuy nhiên tôi cũng để cho Thiệu có thời gian suy nghĩ” – No More Vietnams trang 155.
Thật vậy, khoảng 140 ngàn quân CSBV chiếm đóng những vùng biên giới thuộc VNCH không phải là mối nguy sinh tử, mà sự tiếp tục viện trợ quân sự kinh tế của Quốc Hội Mỹ mới là điều then chốt. Cho dù đòi được điều kiện Cộng quân phải rút hết về miền Bắc nhưng sau đó một thời gian họ lại xâm nhập miền Nam thì cũng như bắt cóc bỏ đĩa thôi. Từ những năm 1971, 1972 Quốc Hội Mỹ nằm trong tay thành phần phản chiến, trong đó Dân chủ chiếm đa số, đường lối của họ trái ngược với Cộng Hoà.
Quốc hội phản chiến chống đối Nixon dữ dội, thúc đẩy ông phải ký kết hiệp định vào tháng 1-1973 bằng mọi giá để đem tù binh về nước, chấm dứt chiến tranh. Nixon cho biết một sự thật phũ phàng là Quốc hội mà đa số là Dân chủ, chống chiến tranh sẵn sàng cắt viện trợ, hy sinh VNCH và cả Đông Dương để đánh đổi lấy hoà bình và khoảng 580 tù binh Mỹ còn nằm trong tay Hà Nội nếu miền Nam gây trở ngại cho việc ký kết. Trong khoảng thời gian này tại Sàigòn báo chí cũng đã cho biết số phận miền Nam phụ thuộc vào đám tù binh Mỹ tại Hà Nội. Cương vị Tổng thống VNCH ông Thiệu cương quyết chống lại bản sơ thảo do Mỹ và BV ký kết vì tự ái dân tộc và sự sinh tồn của miền Nam là điều hợp lý nhưng Hành pháp Mỹ cũng có lý của họ.
Trong khi tỷ lệ người ủng hộ chiến tranh ngày một giảm, số người chống ngày càng tăng: Từ đầu 1967 tới cuối 1967 giảm từ 52% xuống còn 45%, từ đầu 1968 tới tháng 10-1968 giảm từ 42% xuống còn 37%, từ đầu 1969 tới tháng 10-1969 giảm từ 39% xuống 32%, từ đầu 1970 tới giữa 1971 giảm từ 33% xuống còn 28%… (Theo Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war).
Nixon cho biết chưa bao giờ nước Mỹ bị phân hoá như thế. Người ta đã quá chán cảnh sinh viên chống chiến tranh ẩu đả với cảnh sát, vệ binh quốc gia bể đầu, đổ máu ngoài đường phố từ năm nọ đến năm kia, đã đến lúc phải có hoà bình.
Ngày 9-11-1972 Nixon cử Tướng Haig sang Sài Gòn trao thư cho T.T Thiệu nói ông không thể sửa đổi bản sơ thảo gì hơn, như thế là tốt đẹp rồi. Haig nhấn mạnh với T.T Thiệu nếu không ký kết trước phiên họp Quốc Hội vào tháng 1-1973, họ sẽ cắt viện trợ cho VNCH, ông Thiệu vẫn cương quyết bác bỏ.
Ngày 14-11, TT Nixon hứa với TT Thiệu
“Tôi xin cam kết tuyệt đối với ông nếu Hà Nội vi phạm Hiệp định, tôi sẽ trừng trị họ nghiêm khắc ngay”
(You have my absolute assurance that if Hà Nội fails to abide by the terms of this agrement, it is my intention to take swift and severe retaliatory action – No More Vietnams, trang 156)
Ngày 20 -11-1972 tại cuộc Hoà đàm Paris, Kissinger đưa những điểm TT Thiệu đề nghị sửa lại, BV bác bỏ ngay, từ đầu tháng 12 BV tỏ ra ngoan cố không chịu đàm phán, họ trông chờ Quốc Hội Mỹ sẽ ra luật chấm dứt chiến tranh, khi ấy bất chiến tự nhiên thành. Ngày 14-12 BV bỏ họp. TT Nixon cương quyết dùng vũ lực bắt Hà Nội phải trở lại hoà đàm. Sau 12 ngày oanh tạc BV bằng B-52 từ 18 -12-1972 cho đến cuối tháng 12-1972, BV phải trở lại bàn hội nghị.
Nixon thông báo cho Kissinger chấp nhận những điều khoản đã có từ tháng 10 để ký Hiệp Định. Ông đã cố gắng thuyết phục ông Thiệu sớm ký kết vì đã tới hạn kỳ, Quốc Hội phản chiến đã quá mệt mỏi muốn Hiệp định phải được ký kết ngay trong tháng 1-1973
Nay vấn đề trở ngại là sự đồng ý của TT Thiệu, Nixon cố gắng trấn an ông bằng lá thư ngày 5-1-1973, ông cam kết sẽ tiếp tục yểm trợ trong thời gian sau khi ký kết và sẽ trả đũa hết mình nếu BV vi phạm thoả hiệp.
(You have my assurance of continued assistance in the post-settlement period and that we will respond with full force should the settlement be violated by North Vietnam – Theo Wikipedia, Operation Linebacker II).
Nhưng lúc này đang bị Quốc hội chống đối, địa vị Nixon không cho phép ông hứa như vậy, thí dụ nếu đưa yêu cầu này ra Quốc hội thì sẽ chẳng hy vọng gì được chấp thuận. Tuy nhiên ông Thiệu vẫn không chịu, ngày 14-1-1973, TT Nixon đã cảnh cáo:
“Tôi đã nhất quyết tiến hành ký Hiệp Định vào ngày 23-1-1973.. nếu cần tôi sẽ đơn phương ký với ho ï
(I have therefore irrevocably decided to proceed to initial the agreement on January 23, 1973…I will do so, if necessary, alone – Theo Wikipedia, Operation Linebacker II).
Hiệp định cuối cùng được ký kết ngày 27-1-1973, Nixon nhìn nhận:
“Tôi biết rằng Hiệp định có nhiều khuyết điểm. Nhưng tôi nghĩ nhìn chung cũng tốt đẹp. Và tôi biết rằng trong khi Quốc Hội đang phản đối ầm ĩ, chúng ta không thể làm gì khác hơn thế”.
(But I believed that on balance it was sound. And I knew that, in light of the growing stridency of our opposition in Congress, we had no alternative to signing it – No More Vietnams, trang 167)
Trang 166 Nixon nói:
Hiệp định Chấm dứt chiến tranh và Phục hồi Hoà bình tại Việt Nam không được hoàn hảo lắm. Nhưng nó cũng đủ bảo đảm sự sống còn của miền nam VN – khi mà Hoa Kỳ sẵn sàng bó buộc sự thi hành các điều khoản của nó”
Nixon thừa biết BV sẽ vị phạm Hiệp định, thực ra tại miền Nam VN, một đứa trẻ nít cũng biết CS sẽ không bao giờ chấp hành các thỏa hiệp đã ký kết. Nixon đã dự trù hai kế hoạch để giữ hoà bình bảo vệ VNCH, ông cho rằng Hoa Kỳ đã chiến đấu trên 10 năm, đã hy sinh hơn 50,000 quân nên quyết không thể để đồng minh VNCH rơi vào tay CSBV.
-Trước hết ông sẽ tiếp tục viện trợ quân sư cho VNCH để họ tự vệ chống xâm lăng.
– Kế đó sẽ trừng trị thích đáng CSBV bằng sự yểm trợ của không lực Mỹ.
Miền Nam chống lại những vi phạm nhỏ của BV, Mỹ sẽ trả đũa những vi phạm lớn, tóm lại oanh tạc cơ B-52 và viện trợ quân sự là hai kế hoạch chính.
Ngoài ra ông cũng dùng chính sách cây gậy và củ cà rốt (But the Paris agreement contained carrots as well as stick). Trong Hiệp định có ghi Mỹ sẽ viện trợ tái thiết cho miền Bắc, đây cũng là điều khoản rất quan trọng, BV tan nát vì bom đạn rất cần tái thiết, viện trợ của Mỹ sẽ là động cơ thúc đẩy Hà Nội giữ hoà bình.
Nhưng mưu sự tại nhân, thành sự tại Thiên, khôn tới mấy cũng không ai khôn hơn được Ông Trời, kế hoạch của Nixon đã bị Quốc Hội phá hỏng hết. Nixon thú nhận ông đã ước tính sai lầm tình hình: Trước ngày ký Hiệp định Paris 27-1-1973 ông tưởng rằng nếu đem lai hoà bình và tù binh về nước, những người phản chiến sẽ thôi chống đối nhưng họ lại càng gia tăng chống đối hơn trước
(I miscalculated how they would respond after the settlement. I thought their opposition to our policy would end with the war end. Instead, it increased – No More Vietnams, trang 182).
Sau vấn đề chiến tranh VN, họ quay ra vụ Watergate tháng 4-1973, tiếp tục chống đối chính phủ. Ngay sau ngày ngưng bắn 27-1-1973, CSBV đưa quân xâm nhập miền Nam, Nixon định cho oanh tạc nhưng sợ ảnh hưởng đến việc BV trả tù binh cho Mỹ ngày 27-3-1973. Tại Cambodia, lực lượng Khmer đỏ do CSBV gây dựng bao vây Nam vang, Nixon cho lệnh oanh tạc Khmer đỏ để yểm trợ cho Lon Nol. Tháng 4 -1973 Nixon hăm doạ oanh tạc BV để họ đừng vi phạm và xâm nhập nhưng Quốc Hội chống đối dữ dội làm tiêu tan khả năng trả đũa của ông. Chính phủ cần tiền để tiếp tục oanh tạc tại Miên, Quốc hội không những từ chối còn bắt đầu soạn tu chính án cấm dùng mọi ngân khoản cho oanh tạc, họ nói chính phủ phải dùng ngoại giao đàm phán chứ không thể dùng vũ lực. Mọi nỗ lực của hành pháp để ngăn chận sự chống đối của Quốc hội thất bại tháng 6-1973.
Khi tu chính án đưa lên bàn Tổng thống 27-6-1973, Nixon phủ quyết và cho biết tu chính án có thể phá hỏng mọi nỗ lực hoà bình ở Cambodia, nhóm phản chiến Quốc hội chống đối dữ hơn. Thương nghị sĩ Mansfield cho biết nếu TT không ngưng oanh tạc Miên ông sẽ bị cắt ngân sách điều hành chính phủ. Nixon miễn cưỡng ký thành luật ngày 30-6 và có hiệu lực từ 15-8-1973, theo đó chấm dứt tất cả ngân khoản trực tiếp, gián tiếp xử dụng cho việc tác chiến tại Mên, Lào, BV, Nam VN. Sự thất bại này khiến Nixon không còn thẩm quyền giữ hoà bình cho VN, Đông Dương và để cho BV tự do thao túng tại miền nam VN.
Quốc hội tiếp tục hạn chế quyền Tổng thống về quân sự, đó là War Power Act: Tổng thống phải thảo luận với Quốc hội trước khi tham chiến. Tổng thống có quyền tham chiến 60 ngày không cần được Quốc hội đồng ý và thêm 30 ngày gia hạn nếu chứng minh bằng văn bản xác nhận sự cần thiết để bảo đảm an ninh cho quân ta. Ngày 24-10 -1973 Nixon phủ quyết dự luật War Power Act cho rằng nó vi hiến xâm lấn quyền Tổng thống , ngày 7-11-1973 Quốc hội phủ quyết sự phủ quyết của Nixon, như thế họ đã bật đèn xanh cho BV xâm lăng VNCH.
Ngoài ra kế hoạch cây gậy củ cà rốt của Nixon cũng bị Quốc hội dẹp luôn:
“Chẳng bao lâu các vị dân cử phản chiến cấm hết mọi hoạt động quân sự của chính phủ tại Đông Dương, họ cũng cấm viện trợ tái thiết cho BV, Quốc hội đã dẹp luôn cả gậy và cà rốt đã được ghi trong Hoà ước, như thế Hà Nội không còn lý do để chấp hành các điều khoản”- Sách đã dẫn trang 178.
Về kế hoạch viện trợ quân sự cho VNCH, ngân khoản do Nixon đề nghị đã bị Quốc hội cắt giảm liên tục từ hai tỷ mốt (2,1 tỷ) tài khoá 1973 xuống một tỷ tư (1,4 tỷ) tài khoá 1974 và 700 triệu tài khoá 1975. Trong khi ấy BV vẫn được CS quốc tế viện trợ dồi dào : Giai đoạn 1969-1972: 684,666 tấn hàng vũ khí, giai đoạn 1973-1975: 649,246 tấn , hai giai đoạn coi như tương đương.
Khi Hiệp định Paris được ký kết, miền Nam VN mạnh hơn miền Bắc, BV bị thiết hại nặng trong trận mùa hè đỏ lửa, khoảng từ 70 ngàn cho tới 100 ngàn cán binh bị tử trận, từ 500 cho tới 700 chiến xa bị phá hủy, VNCH thiệt hại khoảng một nửa. Sau trận oanh tạc cuối tháng 12-1972, các hạ tầng cơ sở quân sự, kho hàng, tiếp liệu, phi trường, ga xe lửa …tại miền Bắc bị tàn phá trầm trọng. Nhưng dần dần trong khi miền Bắc ngày một mạnh hơn nhờ CS quốc tế viện trợ dồi dào, miền Nam ngày một suy yếu vì Quốc hội Mỹ cắt giảm viện trợ tới xương tủy đưa tới sự sụp đổ ngày 30-4-1975 như ta đã thấy.
Nixon đổ lỗi cho Quốc hội, ông nói:
“Chúng ta chiến thắng ở Việt Nam nhưng không giữ được hoà bình . Thành quả mà ta đạt được sau mười hai năm chiến đấu đã bị vứt bỏ trong một cơn điên khùng vô trách nhiệm của Quốc hội”- Sách đã dẫn trang 165.
Nixon cũng chịu trách nhiệm trong sự sụp đổ VNCH và Đông Dương, sự hoà hoãn với Trung Cộng, Nga Sô do ông thực hiện được năm 1972 đã ngầm thúc đẩy Quốc hội bỏ rơi Đông Dương vì thuyết Domino không còn giá trị.
Trả lời một cuộc phỏng vấn của một tờ báo Đức tại hải ngoại, cựu TT Thiệu cũng đã xác nhận sự thất bại không phải do Cộng quân không chịu rút về Bắc mà vì VNCH không được tiếp tục viện trợ quân sự của Hoa Kỳ cũng như sự yểm trợ hoả lực của họ.
Như thế không phải Hiệp định Paris đã bức tử VNCH.
© Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
nguon
———————————————–
Tài liệu tham khảo.
Richard Nixon: No More Vietnams, Arbor House, New York 1985.
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
English.illinois.edu/maps/vietnam/antiwar.html: Mark Barringer: The Anti-war Movement in the United States.
Radical times:The antiwar Movement of the 1960s, Politic and the Antiwar Movement.
Answer.com: Vietnam Asntiwar Movement
Lars-Klein. com: Nixon plan for ending Vietnam war.
Digital history. uh. Edu/… Nixon and Vietnam.
Kansaspress.ku.edu: Nixon’s Vietnam war
Wikipedia: Operation Linebacker II
The Hauenstein Center for Presidential: Nixon and the Christmas bombing.
http://www.answer.com/topic/domino-theory: Domino theory.
BBCVIETNAMESE.Com: Viện Trợ Quốc Tế Cho Miền Bắc Trong Chiến Tranh , 10-5-2006
Wikipedia: Opposition to the US involvement in the Vietnam war.
Nguyễn Kỳ Phong: Vũng Lầy Của Bạch Ốc, Người Mỹ Và Chiến Tranh Việt Nam 1945-1975, Tiếng Quê Hương 2006.
Nguyễn Đức Phương: Chiến Tranh Việt Nam Toàn Tập, 1963-1975, Làng Văn 2001.
Nguyễn Đức Phương: Những Trận Đánh Lịch Sử Trong Chiến Tranh Việt Nam, 1963-1975, Đại Nam.
Cao Văn Viên: Những Ngày Cuối Của Việt Nam Cộng Hoà, Vietnambibliography, 2003.
Nguyễn Tiến Hưng: Khi Đồng Minh Tháo Chạy, Hứa Chấn Minh 2005
Đặng Phong: 5 Đường Mòn Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Trí Thức, Hà Nội 2008
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
Mao và chiến dịch tiến chiếm Hoàng Sa 1974
Luồng gió ngoại giao đã đổi chiều khi Tổng Thống Mỹ Richard Nixon bắt tay với Mao ngày 21 tháng Hai 1972. Chuyến viếng thăm Trung Cộng của Nixon nhắm vào 3 mục đích: (1) hướng tới một giải pháp hòa bình tại Đài Loan, (2) tìm một giải pháp hòa bình cho chiến tranh Việt Nam qua đàm phán và (3) giảm ảnh hưởng của Liên Xô. Như lịch sử đã chứng minh, ít nhất hai trong số ba mục đích của TT Richard Nixon đều không đạt được. Chỉ riêng vấn đề Việt Nam, chiến tranh không chấm dứt bằng giải pháp hòa bình mà bằng máu cho đến ngày 30-4-1975.
Sự gần gũi giữa Mỹ và Trung Cộng đã đẩy Viêt Nam nghiêng xa hơn về phía Liên Xô. Bắc Việt cho rằng Trung Cộng đã phản bội đảng CSVN khi đặt mối quan hệ giữa Trung Cộng và Mỹ lên trên quyền lợi của Bắc Việt. Xuân Thủy, trưởng phái đoàn đàm phán của Bắc Việt, tố cáo Mỹ “âm mưu chia rẽ khối xã hội chủ nghĩa”. Khoảng cách giữa Bắc Việt và Trung Cộng xa cách dần mặc dù Trung Cộng tuyên bố vẫn tiếp tục “ủng hộ cuộc chiến chống Mỹ đến mục đích cuối cùng”.
Chủ trương chiếm Hoàng Sa trước khi chiến tranh chấm dứt
Sau khi hiệp định Paris được ký kết, quan hệ giữa CS Bắc Việt và Trung Cộng trở nên tệ hại hơn. Học bài học tranh chấp biên giới với Liên Xô phía Bắc và phát xuất từ mối lo sợ bị bao vây ở phía Nam, Mao nghĩ đến việc phải tiến chiếm các đảo ngoài Biển Đông trước khi CS Bắc Việt chiếm toàn bộ Việt Nam và rơi hoàn toàn vào quỹ đạo của Liên Xô, lúc đó là kẻ thù số một của Trung Cộng. Mao càng lo lắng hơn khi thấy chính sách của Mỹ ngày càng trở lại với chủ trương tự cô lập (American Isolationism) trước đây trong lúc Liên Xô ngày càng mở rộng và có khả năng lấn chiếm sang Châu Á.
Ngoài lý do lãnh thổ, việc tiến chiếm Hoàng Sa là một bước thay đổi quan trọng trong chính sách đối ngoại của Mao, chuyển từ giai đoạn đấu tranh cách mạng dựa trên quan điểm Marx-Lenin-Mao sang thực tế quốc tế. Để thực thi các chính sách này, Mao cần một lãnh đạo có đầu óc thực dụng, và người đó không ai khác hơn là Đặng Tiểu Bình. Ngày 22 tháng 12, 1973, Mao phục hồi họ Đặng.
Mặc dù già nua, bệnh hoạn, chủ trương “phục hồi các lãnh thổ Trung Quốc bị mất” là chủ trương của Mao.
Đặng Tiểu Bình đóng vai trò tích cực nhưng y chỉ mới được phục hồi chưa đầy một tháng sau sáu năm bị hạ bệ. Chu Ân Lai chủ tọa nhiều phiên họp của Bộ Chính Trị nhưng trong thời gian đó họ Chu đang bị kết án hữu khuynh. Diệp Kiếm Anh được giao trách nhiệm chủ tịch của ủy ban nhưng họ Diệp đã 77 tuổi và thuộc thành phần tướng lãnh thời Vạn Lý Trường Chinh.
Tháng Giêng 1974, Mao quyết định tiến chiếm Hoàng Sa trước. Kế hoạch chiếm Hoàng Sa được nghiên cứu rất kỹ lưỡng và chi tiết, không chỉ về mặt quân sự mà cả chuẩn bị dư luận quốc tế để biện hộ cho hành động xâm lược Việt Nam.
Về mặt đối ngoại. Để có lý do tấn công Hoàng Sa của Việt Nam Cộng Hòa, bộ máy tuyên truyền Trung Cộng tố cáo Việt Nam Cộng Hòa vào tháng 11, 1973 đã bắt giữ tàu đánh cá Trung Cộng và hành động đó được xem như vi phạm chủ quyền Trung Cộng, buộc Trung Cộng phải “phản công tự vệ”. Ngày 11 tháng Giêng 1974, Bộ Ngoại Giao Trung Cộng ra thông báo xác định chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa và vùng biển chung quanh quần đảo này: “Các quần đảo Nam Sa, Tây Sa, Trung Sa đều là một phần của lãnh thổ Trung Quốc. Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa có chủ quyền không thể tranh cãi đối với những hòn đảo này”.
Về mặt tổ chức. Một ủy ban đặc nhiệm của các lãnh đạo cao cấp nhất trong đảng và nhà nước Trung Cộng được thành lập để phát thảo kế hoạch tiến chiếm Hoàng Sa được thành lập trong phiên họp của Bộ Chính Trị do Chu Ân Lai chủ tọa. Năm Ủy viên Bộ Chính Trị trong ủy ban gồm Thống Chế Diệp Kiếm Anh (Ye Jianying), Phó Chủ Tịch Trung Ương Đảng Vương Hồng Văn (Wang Hongwen), Ủy Viên Thường Trực Bộ Chính Trị phụ trách tuyên truyền Trương Xuân Kiều (Zhang Chunqiao), Phó Thủ Tướng Đặng Tiểu Bình (Deng Xiaoping) và Đại Tướng Tư Lệnh Quân Khu Bắc Kinh Trần Tích Liên (Chen Xilian). Chu Ân Lai giao cho Diệp Kiếm Anh trách nhiệm điều hành ủy ban.
Mao phê chuẩn thành phần ủy ban.
Một phiên họp mở rộng sau đó, ngoài Chu Ân Lai và năm thành viên còn có sự tham dự của Đô Đốc Tô Chấn Hoa (Su Zhenhua), Chính Ủy Thứ Nhất của Hải Quân Trung Cộng. Tô Chấn Hoa là một trong những tướng hải quân có quan hệ mật thiết với Đặng Tiểu Bình và cũng là người chủ trương bành trướng Biển Đông.
Với một thành phần lãnh đạo chiến dịch cao cấp và đầy đủ ban bộ như vậy chứng tỏ việc tiến chiếm Hoàng Sa không chỉ là một tranh chấp biển đảo bình thường mà còn mang một ý nghĩa chiến lược hàng đầu và phải chiếm Hoàng Sa bằng mọi giá.
Về mặt quân sự. Đây là lần đầu tiên hải quân Trung Cộng thực hiện một cuộc viễn chinh hải quân chống lại nước ngoài và lực lượng tham chiến được chọn lựa kết sức cẩn thận. Bốn ngày sau khi Trung Cộng tuyên bố chủ quyền, 11 chiến hạm của hải quân Trung Cộng và 600 lính được lệnh tiến vào vị trí. Các phi đoàn chiến đấu cơ đặt trên đảo Hải Nam được lệnh sẵn sàng tham chiến. Đặng Tiểu Bình trong thời gian này vừa được giao phó chức vụ Tổng Tham Mưu Trưởng Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và thay mặt ủy ban điều hợp các họat động của Quân Ủy Trung Ương cũng như các vấn đề quân sự khẩn cấp. Bộ Tư lệnh Hạm Đội Nam Hải dưới quyền Tư lệnh Zhang Yuanpei trực tiếp chịu trách nhiệm tiến chiếm Hoàng Sa.
Kế hoạch được đệ trình lên Mao và Mao chấp thuận.
Ngày 19 tháng Giêng 1974, Hải Quân Trung Cộng tiến chiếm Hoàng Sa. Sau trận hải chiến khoảng một giờ, Trung Cộng chiếm Hoàng Sa. Phía Trung Cộng công bố họ chỉ có 18 binh sĩ thiệt mạng và không có tàu nào chìm mặc dù báo chí Tây Phương cho rằng ít nhất một chiến hạm của hải quân Trung Cộng đã bị bắn chìm. Người viết không trình bày chi tiết ở đây vì diễn biến của hải chiến Hoàng Sa đã được rất nhiều tài liệu và nghiên cứu Việt Nam cũng như quốc tế công bố. Rất nhiều thông tin quý giá đang được lưu trữ tại website hqvnch.org.
Thái độ bàng quan của Mỹ
Chính phủ Mỹ ra lệnh Đệ Thất Hạm Đội không được can thiệp vì đã đồng ý ngầm với Trung Cộng sẽ giữ thái độ bàng quan trong tranh chấp Hoàng Sa, và các chiến hạm và phi cơ của Mỹ sẽ không xâm phạm giới hạn 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa. Cam kết này của Mỹ đã được Ngoại Trưởng Trung Cộng Hoàng Hoa nhắc lại trong diễn văn đọc trước Liên Hiệp Quốc ngày 12 tháng Tư 1972 với sự hiện diện của Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Henry Kissinger.
Bản tin của báo Time ngày 4 tháng Hai 1974 cũng xác định chính sách của Mỹ trong hải chiến Hoàng Sa là “tuyệt đối khoanh tay”.
Ngoài ra, trước đó vào mùa xuân 1972, Trung Cộng đã thử ý định Mỹ bằng cách gởi công hàm phản đối khi một tàu chiến Mỹ vi phạm khu vực 12 hải lý của quần đảo Hoàng Sa. Mỹ đáp ứng bằng việc chỉ thị hải quân Mỹ sẽ không hải hành trong khu vực 12 hải lý do Trung Cộng quy định. Thái độ đó của Mỹ là dấu hiệu cho Trung Cộng biết Mỹ sẽ không can dự vào tranh chấp Hoàng Sa.
Tại sao Trung Cộng chọn ngày 19 tháng Giêng 1974?
Ngày 19 tháng Giêng 1974 là ngày kỷ niệm 24 năm Trung Cộng công nhận nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Đây không phải là sự kiện trùng hợp ngẫu nhiên mà là một cái tát chính trị vào mặt đảng CSVN.
Tối ngày 20 tháng Giêng, Chu Ân Lai triệu tập phiên họp để tổng kết thành quả chiến dịch, và ngay sau phiên họp y đã trình chiến thắng lên Mao. Quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam bị sáp nhập vào địa phận tỉnh Quảng Đông. Các báo đảng và nhà nước Trung Cộng sau đó đã tung hô “chiến thắng vĩ đại của Mao Chủ tịch trên biển”.
Về phía CSVN, ngoài tuyên bố ba điểm chung chung giống như người ngoài cuộc của cái gọi là “Chính phủ Lâm thời Cộng Hòa Miền Nam Việt Nam” ngày 26 tháng Tư 1974, các lãnh đạo CS Bắc Việt không có một lời phản đối nào trước hành động xâm lăng của Trung Cộng. Khi đất nước bị xâm lăng, những kẻ chọn thái độ im lặng cũng chẳng khác gì chọn đứng về phía xâm lăng.
Bài học lịch sử từ hải chiến Hoàng Sa
– Đừng trông cậy vào ngoại viện: Trong tổng kết mới nhất The U.S. China Military Scorecard 1996-2017 của RAND Corporation, tuy Trung Cộng đạt nhiều tiến bộ trong hơn 30 năm hiện đại hóa, kỹ thuật chiến tranh của Mỹ vẫn còn dẫn trước rất xa. Ngay cả trong vũ khí nguyên tử, tỉ lệ giữa Mỹ so với Trung Cộng là 13 trên 1. Nghĩa là, dù bắn trước, Trung Cộng vẫn sẽ phải bị Mỹ đánh trả bằng bom nguyên tử nhiều lần.
Tuy nhiên, sự vượt trội kỹ thuật chiến tranh không có nghĩa Mỹ sẽ can thiệp vào xung đột Biển Đông nếu Việt Nam bị Trung Cộng tấn công lần nữa. Vì các lý do kinh tế, Mỹ có thể làm ngơ như họ đã từng làm ngơ vì lý do chính trị trong hải chiến Hoàng Sa 1974. Bài học của hai cuộc thế chiến cho thấy Mỹ chỉ tham chiến khi quyền lợi của họ bị va chạm trực tiếp và phải có lợi về đường dài. Không nên trách ai cả. Một con người hay một quốc gia cũng thế, phải tự đứng lên bằng đôi chân của chính mình trước khi trông cậy vào sự giúp đỡ của người khác.
– Dân chủ hóa hay mất nước: Tham vọng bành trướng trên Biển Đông của Trung Cộng quá rõ ràng và lộ liễu. Mặc dù có các áp lực quốc tế, không có dấu hiệu gì cho thấy Trung Cộng sẽ từ bỏ tham vọng chiếm đoạt Biển Đông. Chủ trương gặm nhấm Biển Đông của Trung Cộng đang được tiến hành từng bước và chúng hy vọng đến mức độ nào đó sẽ đặt Mỹ và cả thế giới vào thế đã rồi. Trung Cộng đã nuốt vô thì chỉ có cách mổ bụng chúng mới lấy ra được.
Để tránh đại họa mất nước, chọn lựa duy nhất của Việt Nam hiện nay là dân chủ hóa và phải dân chủ hóa gấp. Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại nhằm tạo sự tin cậy nơi các nước dân chủ Tây Phương, nhưng quan trọng nhất là nền tảng của đoàn kết dân tộc và thăng tiến đất nước. Một dân tộc chia rẽ không thắng được Trung Cộng. Dân chủ là đôi cánh giúp đất nước có thể cất cao lên cùng thời đại. Đó không phải là lý thuyết mà là thực tế chính trị đang được hầu hết các quốc gia áp dụng. Mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất trong tiến trình dân chủ hóa là tháo gở cho được cơ chế chính trị xã hội độc tài CS hiện nay.
– Chủ động chiến lược hóa vị trí quốc gia để khỏi bị “Phần Lan Hóa” (Finlandization): Trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, Liên Xô cho phép Phần Lan được duy trì cơ chế dân chủ trong khi khống chế mọi chính sách đối nội và đối ngoại đi ngược với quyền lợi của Liên Xô. Phần Lan không có chọn lựa nào khác vì không nằm trong vị trí chiến lược.
Khác với trường hợp Phần Lan, một Việt Nam dân chủ có khả năng thoát ra khỏi khả năng bị “Phần Lan Hóa”, đưa đất nước vào vị trí chiến lược quốc tế và chủ động làm cho quốc tế quan tâm.
Chủ trương hiện nay của lãnh đạo CSVN “không tham gia các liên minh quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia” là chủ trương tự sát, không đúng về lý thuyết lẫn thực tế chính trị. Chủ trương này là bản sao chính sách đối ngoại của Trung Cộng nhưng khác ở điểm Trung Cộng chỉ tuyên bố để tuyên truyền chứ không bao giờ áp dụng.
Kết luận
Robert D. Kaplan, nhà nghiên cứu chính trị quốc tế nổi tiếng và đã được tạp chí The Policy hai lần xếp vào danh sách 100 nhà tư duy hàng đầu của thế giới (“Top 100 Global Thinkers”), cho rằng Trung Cộng có khả năng cao sẽ “Phần Lan Hóa” Việt Nam.
“Phần Lan Hóa” là một loại chủ nghĩa thực dân trong thời đại toàn cầu. Chủ trương này ít tốn kém vì các quốc gia bị “Phần Lan Hóa” được phép duy trì độc lập trên danh nghĩa nhưng chính sách đối ngoại sẽ được soạn thảo tại Bắc Kinh. Trung Quốc làm như vậy để vừa thúc đẩy nền kinh tế đang tiến rất chậm và đồng thời cũng để giảm áp lực chống đối từ trong nước qua việc đề cao chủ nghĩa dân tộc. Công thức mà Trung Cộng đang sử dụng không có gì mới và mô hình phát triển hiện nay của Trung Cộng cũng không phải là một loại mô hình ngoại lệ (Chinese exceptionism) như một số lý thuyết gia của đảng CSTQ đang dùng để kết luận Trung Cộng sẽ không sụp đổ.
Một thành phần có ảnh hưởng trực tiếp vào sự thay đổi cơ chế chính trị nhưng Robert D. Kaplan không đưa vào phân tích của ông, đó là nhân dân, tức là thành phần những người dân của một quốc gia có ý thức cao về quyền hạn và trách nhiệm phải thực thi đối với đất nước. Trong thực tế cách mạng dân chủ, đóng góp của nhân dân là yếu tố âm thầm nhưng quyết định, tiềm tàng nhưng vô cùng mạnh mẽ như đã chứng tỏ tại nhiều quốc gia Đông Âu, Phi Châu, và tại Liên Xô cũ. Tại Việt Nam, yếu tố nhân dân còn giới hạn, chưa tập trung, thiếu tổ chức nhưng đã có và đang trên đà phát triển. Những hạt giống đã được gieo xuống. Mỗi người Việt, mỗi tổ chức, đoàn thể trong điều kiện và phương tiện sẵn có của mình nên tập trung chăm bón.
Trần Trung Đạo
Tham khảo:
– Yang Kuisong (2002). Changes in Mao Zedong’s Attitude toward the Indochina War, 1949-1973. Woodrow Wilson International Center for Scholars.
– Bruce A. Elleman and S.C.M. Paine (2011). Naval Power and Expeditionary Warfare: Peripheral Campaigns and New Theatres of Navy Warfare. Taylor and Francis Group.
– Qiang Zhai (2002). China & The Vietnam Wars, 1950-1975. University of North Carolina Press.
– Dr. Stein Tonnesson (2001, July). The Paracels: The “other” South China Sea Dispute, Paper presented at the South China Sea Panel, International Studies Association, Hong Kong Convention.
– Eric Heginbotham (2015). The U.S. China Military Scorecard 1996-2017, RAND Corporation.
– Paracel (Xisha) Islands – 1974, globalsecurity.org.
– David Brown (2014, May 22). Vietnam Faces “Finlandization” from China. Asia Sentinel.
– Larry M. Wortzel, Robin D. S. Higham (1999). Dictionary of Contemporary Chinese Military History. Greenwood Press.
– The World: Storm in the China Sea. Time, Feb. 04, 1974.
– Robert D. Kaplan. The South China Sea is to China what the Greater Caribbean was to the United States, The Globe and Mail, June 19, 2015.
– John W. Garver. Chinas Quest: The History of the Foreign Relations of the Peoples Republic. pp. 324-325. Oxford University Press.
– Lai To Lee (1999). China and the South China Sea Dialogues, pp13-14. Praeger, London.
– Bill Hayton (2014). The South China Sea: The Struggle for Power in Asia, Yale University Press.
– hqvnch.org (Trang sưu tầm tài liệu lịch sử Hải Quân VNCH)
Âm Mưu xóa bỏ Ngày Quốc Hận.
(Trí Thức Bịnh Hoạn)
* * *
Khoảng 9 giờ sáng ngày 30/4/1975, Tổng thống Dương Văn Minh kêu gọi các binh lính Việt Nam Cộng Hòa trên Đài phát thanh Sài Gòn, hãy bình tĩnh, không nổ súng và ai ở đứng vị trí của người ấy để gặp Chính phủ Cách Mạng thảo luận lễ bàn giao chính quyền trong trật tự, tránh đổ máu. Mặc dầu lời kêu gọi này không có hai chữ đầu hàng (1), nhưng cũng đủ làm cho người nghe có cảm tưởng như cả một bầu trời đã đổ xụp xuống đầu người dân miền Nam. Từ đó, ngày 30/4 đã được người dân miền Nam, nhất là những người đã phải đi tù hay đi cải tạo gọi đó làNgày Quốc Hận.
I/ Quốc Hận vì:
1/ Bị đồng minh phản bội. Thực vậy, quân đội VNCH, một quân đội thiện chiến và can đảm, đã đẩy lui và chiến thắng quân đội nhân dân của VC không biết bao nhiêu là trận chiến, làm cho quân đội nhân dân của VC phải khiếp vía kinh hồn mỗi khi nghe tin có binh sĩ Nhẩy Dù hoặc Thủy Quân Lục Chiến hay Biệt Động Quân tới. Vậy mà cuối cùng vì bị đồng minh phản bội đã phải buông súng tan hàng. Hàng chục Tướng Tá và hàng trăm binh sĩ đã uất hận mà tự sát vì không muốn sống nhục dưới chế độ độc tài cộng sản.
2/ Bị Việt Cộng lường gạt. Hẳn chúng ta còn nhớ, ngay sau khi tên Trung tá Việt Cộng Bùi Văn Tùng tuyên bố chấp nhận lời đầu hàng của Tổng Thống Dương Văn Minh vào khỏang 12 giờ trưa ngày 30/4/75, Việt Cộng đã liên tục cho phát thanh chính sách hòa hợp hòa giải của MTGPMN khiến nhiều người tin tưởng là có hòa hợp hòa giải thực sự nên đã không còn tìm cách rời khỏi VN nữa. Một số khác, tuy đã trốn chạy khỏi VN cũng tìm cách trở về để rồi cả trăm ngàn quân cán chính phải nuốt hận vào tù hoặc dắt díu nhau đi học tập cải tạo cả một hai chục năm khiến cả chục ngàn người phải chết vì bị đói, vì bệnh hoặc vì bị hành hạ cả tinh thần lẫn thể xác.
3/ Bị cướp đọat tài sản và bị đẩy đi kinh tế mới. Đối với những người không phải là quân nhân hay công chức mà bọn VC gọi là “ngụy quân”, “ngụy quyền”, chúng dùng chính sách đổi tiên và cải tạo Công Thương Nghiệp để cướp đọat tiền bạc, tài sản và nhà cửa của họ rồi đẩy họ đi lên các vùng kinh tế mới khiến nhiều người uất hận phải nhẩy lầu tự tử hoặc liều chết vượt biên đi tìm tự do khiến cả trăm ngàn người phải bỏ mình ngòai biển khơi.
II/ Những âm mưu muốn xóa bỏ ngày Quốc Hận 30/4
Không phải bọn Việt Cộng chỉ gây nên hận thù cho đồng bào miền Nam vào ngày 30/4/75. Thực ra chúng đã gây nên không biết bao nhiêu tội lỗi, óan thù cho đồng bào cả nước từ 1945 và cho tới nay chúng vẫn còn gây không biết bao tang thương cho đồng bào cả nước. Chúng còn bán cả đất, dâng cả biển cho Trung Cộng. Chúng làm lơ cho Trung Cộng đưa dân tới tỉnh biên giới phía bắc của Việt Nam để lập làng, lập ấp sinh sống. Chúng để cho tầu Trung Cộng vào hải phận Việt Nam cướp bóc các tầu đánh cá của ngư dân Việt Nam. Ấy vậy mà tại hải ngọai này lại có một số người Việt vô liêm sỉ toan tính biến ngày Quốc Hận 30/4 thành Ngày Nam Việt Nam.
Ngày 4/4/2013, Trucie D. phổ biến bài viết của Tâm Việt, bút hiệu của ông Nguyễn Ngọc Bích về tin viện quốc hội tiểu bang Virginia, chấp thuận Nghị quyết SJR 455, chọn ngày 30-4 năm nay 2013 và cho những năm sau đó, là Ngày Nam Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa (2).
Theo bài viết này thì Thượng-viện QUYẾT-NGHỊ, với sự đồng-thuận của Hạ-viện, là Đại-nghị-viện Virginia sẽ lấy ngày 30 tháng Tư 2013 và cùng ngày này trong những năm kế-tiếp, làm Ngày Công Nhận Nhân Dân Nam Việt Nam ở Virginia; Và để cho hấp dẫn hơn, ông Nguyễn Ngọc Bích đã bỏ đi 2 chữ Nhân Dân và thêm mấy chữ hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa. Nhưngdù là Ngày Nam Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa thì cũng không thể là ngày 30/4 được.
Ngày Nam Việt Nam hay Ngày Việt Nam Cộng Hòa phải là ngày 26/10 tức ngày nền Cộng Hòa Việt Nam được thành lập. Còn ngày 30/4/75 là ngày miền Nam Việt Nam bị bọn Cộng Sản Hà Nội cưỡng chiếm, ngày nền Cộng Hòa Việt Nam bị xụp đổ. Vậy thì tại sao không chọn ngày 26/10 mà lại đi chọn ngày 30/4?
Làm sao có thể gọi ngày 30/4 là ngày Việt Nam được khi nền Cộng Hòa Việt Nam đã bị xụp đổ và chính cái ngày này đã đưa cả nước Việt Nam chìm đắm trong ngục tù Cộng Sản. Chính cái ngày này đã làm cho người dân VN mất hết tự do và nhân quyền.
Làm sao có thể gọi ngày 30/4/75 là ngày Việt Nam được khi mà chính cái ngày này đã làm cả triệu người chết vì đi tim tự do và cả triệu người khác chết vì chiến tranh do bọn Việt Cộng miền Bắc gây ra.
Ông Dick Black là người Mỹ, ông có quyền ăn mừng (Celebrate) vì nước Mỹ không còn hao tổn tiền bạc và nhân mạng cho chiến tranh Việt Nam nữa. Nhưng chúng ta, là người Việt Tỵ Nan Cộng Sản, không ai lại ăn mừng ngày 30/4. Chỉ có bọn Việt Cộng, bọn thân Cộng và bọn Việt Gian Cộng Sản mới ăn mừng ngày ấy. Ấy vậy mà ông Nguyễn Ngọc Bích và đồng chí của ông hết lòng hỗ trợ cho Quyết Nghị SJR 455 này. Không những thế ông và các đồng chí của ông còn cố tình hướng dẫn sai lạc bằng cách “TREO ĐẦU DÊ, BÁN THỊT CHÓ” như chúng ta đã biết. Không biết ông Nguyễn Ngọc Bích và các đồng chí của ông là hạng người nào?
Đành rằng, không ai có quyền xóa bỏ NGÀY QUỐC HẬN và cũng không ai có thể xóa bỏ được NGÀY QUỐC HẬN. Chỉ có VC và VGCS mới muốn xóa nhòa ngày Quốc Hận bằng cách đặt một cái tên khác cho ngày 30/4 hòng trốn tránh những tội lỗi mà bọn chúng đã gây ra cho đồng bào miên Nam Việt Nam. Xóa nhòa được ngày Quốc Hận là chúng xóa bỏ được tội ác của chúng và hận thù của người quốc gia. Xóa bỏ được hận thù của người quốc gia là chúng xóa bỏ được làn ranh quốc cộng và thực hiện được những mục tiêu mà bọn Việt Cộng đã đề ra trong nghị quyết 36.
Thực ra âm mưu này đã bị bọn VGCS toan tính muốn biến ngày này thành Ngày Diễn Hành Cho Tự Do (“March for Freedom”) vào năm 2005 (3) và Ngày Thuyền Nhân vào năm 2011, 2012. Nhưng cả hai lần này đều bị thất bại.
Chúng ta có thể quên hận thù, nhưng chúng ta không thể quên những tội ác của chúng (VC). Vì thế ngày 30/4 sẽ mãi mãi là ngày Quốc Hận. Chúng ta không những phải nhớ ngày Quốc Hận 30/4 mà còn phải nhớ cho thật đầy đủ, cho thật rõ ràng những tội ác mà bọn VC đã gây ra cho dân tộc VN để một ngày nào đó chế độ Cộng Sản có bị tiêu vong chúng ta sẽ đưa bọn chúng ra trước đồng bào cả nước để xét xử những tội lỗi của chúng.
Là người Việt tỵ nạn Cộng Sản, chúng ta phải cực lực phản đối Quyết Nghị SJR 455 chọn ngày 30/4 năm nay (2013) và cho những năm sau đó là Ngày Việt Nam hay là Ngày Việt Nam Cộng Hòa và cực lực lên án những tên VGCS đã vận động cho Quyết Nghị này ra đời. Yêu cầu ông Nguyễn Ngọc Bích phải bạch hóa tên của những kẻ này, nếu không ông Nguyễn Ngọc Bích phải hòan tòan chịu trách nhiệm về Quyết Nghị SJR 455.
Chú thích.
(1) Lời đầu hàng được chính thức phát thanh vào lúc 12 giờ trưa ngày 30/4/75 và được tên Trung tá Việt Cộng Bùi Văn Tùng tuyên bố chấp nhận đầu hàng: “Chúng tôi đại diện lực lượng quân Giải phóng miền Nam Việt Nam long trọng tuyên bố thành phố Sài Gòn đã được giải phóng hoàn toàn, chấp nhận sự đầu hàng không điều kiện của ông Dương Văn Minh, tổng thống chính quyền Sài Gòn”.
(2) Thượng-viện QUYẾT-NGHỊ, với sự đồng-thuận của Hạ-viện, là Đại-nghị-viện Virginia sẽ lấy ngày 30 tháng Tư 2013 và cùng ngày này trong những năm kế-tiếp, làmNgày Công Nhận Nam Việt Nam ở Virginia. Thực ra nếu dịch đúng và sát nghĩa phải dịch là Ngày Công Nhận Nhân Dân Nam Việt Nam.
(3) Xin vào Google xem bài “Liêm Sỉ Của Người Lính” của Kim Âu
nguon
* * *
TÀI LIỆU QUAN TRỌNG
–Việt Nam Cộng Hòa – Sau 30 Năm Tị Nạn csVN tại Hải Ngoại
–Việt Nam Cộng Sản – Sau 30 năm Thống Trị Vietnam
–Cộng Sản Việt Nam – Thanh Trừng Nội Bộ
–Đảng CSVN – Bí mật bán Nước cho Trung Cộng
–Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng – Đồng Hóa
–Sách lược : Diệt chủng dân tộc Việt của Trung Cộng
–Tài Liệu : Hủy hoại trí tuệ và Đất Nước
–Trung Quốc : Nắm 137 lô đất Chiến Lược tại Đà Nẵng
–Trung Quốc : Chủ Mưu xây dựng Formosa Thải Độc Diệt Chủng VN
–Liên Hiệp Quốc : Bác bỏ “đường lưỡi bò” Trung Quốc
–Nguyên nhân – Thất thủ Điện Biên Phủ
–Tháng Tư Đen – Bí Mật Vĩ Đại
–Danh sách : Trên 300 Cộng Sản VN có vài trăm triệu USD
–Hàng chục tỷ USD – Tẩu thoát “Ngầm” ra khỏi Việt Nam
–Chỉ thị 45 – CSVN kêu gọi Người Việt hải ngoại xóa bỏ Hận Thù
Lệnh rút khỏi Huế của Tổng thống Thiệu
Tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng
GETTY IMAGES Image captionĐại nội Huế
Vua nước Chiêm Thành là Chế Mân, người anh hùng chiến thắng cả được quân Nguyên Mông, thế mà lại phải đầu hàng trước nhan sắc nghiêng nước nghiêng thành của Huyền Trân Công chúa. Ông liền dâng cả miền đất của Châu Ô, Châu Rí cho Việt Nam để làm quà sính lễ xin cưới Huyền Trân về làm vợ.
Nàng hy sinh, giúp mở được con đường Nam Tiến. Vua Trần đổi tên hai châu thành Thuận Châu và Hóa Châu, gọi tắt là Thuận Hóa. Chữ ‘Hóa’ dần dần đọc trại đi thành “Huế.”
Câu chuyện lãng mạn ấy đi đôi với cái phong cảnh nhẹ nhàng, quyến rũ của miền đất này. Lăng tẩm, Thành nội, Thành ngoại, đầm sen tỏa hương thơm ngát. Rồi những buổi chiều tím, những đêm trăng mờ, những con đò nho nhỏ.
“Năm năm vàng son” của Việt Nam Cộng Hòa
Tổng thống Thiệu ra lệnh khai hỏa ở Hoàng Sa
Nixon đã cản trở hòa đàm ở Việt Nam thế nào?
Nếu ta dừng lại ở vài bậc chót khi lên Chùa Thiên Mụ mà ngắm cảnh hoàng hôn rực rỡ trên dòng Sông Hương thì sẽ thấy lòng mình lắng xuống, rồi như bị cuốn vào với tiếng chuông chùa, ngân vang vào không trung: ai đi xa Huế làm sao quên được Sông Hương?
Cái cảnh nửa đi nửa ở không phải chỉ ám ảnh người lữ khách khi phải lìa xa nơi Cố đô, nhưng nó còn làm cho các nhà quân sự trăn trở không ít khi phải vĩnh biệt chốn Kinh Kỳ vào cuối tháng Ba năm ấy. Lúc thì cố thủ, lúc thì rút quân, rút xong lại muốn quay về giữ Huế, cứ dùng dằng mãi.
Quyết định rút khỏi Huế
Trong một báo cáo tối mật của Tướng Fred Weyand gửi Tổng Thống Gerald Ford sau chuyến viếng thăm chiến trường Miền Nam vào cuối tháng Ba 1975, ông nói tới hậu quả bi đát của việc cúp hết viện trợ làm tê liệt khả năng chiến đấu của Việt Nam Cộng hòa.
Về cuộc họp tại Dinh Độc Lập trước khi bỏ Huế (13/3), ông bình luận:
“Trong mười hai ngày tiếp theo sau buổi họp này (từ 13 tới 25), có sự băn khoăn lớn lao (critical desolation) từ phía Quân Đoàn I và Sài Gòn về việc nên giữ lại những phần nào ở Quân đoàn I, nhất là về việc có nên hay không nên giữ Huế.”
“– Anh Trưởng hả? Liệu có giữ được Huế không?”
Tổng thống Thiệu hỏi Tướng Ngô Quang Trưởng qua điện thoại. Hôm đó là ngày 25 tháng Ba 1975.
Một cuộc họp tại Dinh Độc Lập dưới quyền chủ tọa của Tổng thống Thiệu lúc 9 giờ 30 sáng. Hiện diện: ngoài Phó Tổng thống Trần Văn Hương và Thủ tướng Trần Thiện Khiêm còn có:
Về phía quân sự: Đại tướng Cao Văn Viên, Trung tướng Đặng Văn Quang, Trung tướng Đồng Văn Khuyên.
Về phía dân sự: Ngoại trưởng Vương Văn Bắc, Tổng trưởng Kế hoạch Nguyễn Tiến Hưng.
Khi mọi người đã đến đông đủ, một bầu không khí im lặng ghê rợn bao phủ phòng họp. Những điểm mầu đỏ đánh dấu vị trí đồn trú của quân đội Bắc Việt trên tấm bản đồ lớn trên tường đã mọc lên như nấm. Cuộc duyệt xét tình hình quân sự bắt đầu.
Sau khi Tướng Khuyên trình bày về tình hình QK I và II, Tổng thống Thiệu nhấc máy điện thoại gọi Tướng Trưởng hỏi xem có giữ được Huế hay không. Rồi ông nhắc lại câu trả lời từ đầu giây bên kia:
Trung tướng Trưởng: “Nếu có lệnh, thì giữ.”
Tổng thống Thiệu: “Liệu giữ được bao lâu?”
Trung tướng Trưởng: “Ngày một ngày hai.”
Tổng thống Thiệu: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Vì những biến cố về Huế còn đặt ra nhiều nghi vấn nên chúng tôi đã ghi lại thật rõ trong cuốn sách Tâm Tư Tổng Thống Thiệu về những diễn tiến ở Dinh Độc Lập có liên hệ tới Quân đoàn I vào tháng 3/1975, cùng với suy tư của Tổng thống Thiệu và Trung tướng Trưởng. Thêm vào đó là tường thuật của Đại tướng Viên và những tài liệu của Hoa Kỳ (xem Tâm Tư Tổng Thống Thiệu, Chương 3).
Cuộc họp tại Dinh Độc Lập ngày 19 tháng 3
Trong bối cảnh ấy thì sáng ngày 19/3, Tướng Trưởng bay vào Sài Gòn để trình bày kế hoạch rút lui lên Tổng thống, lần này có sự hiện diện của cả Phó Tổng thống Nguyễn Văn Hương.
Sự hiện diện của cụ Hương là việc bất thường, vì xưa nay khi bàn chuyện quân sự ông Thiệu thường chỉ mời có các ông Khiêm, Viên và Quang mà thôi. Chắc lúc đó, ông phải nhờ đến sự ủng hộ của Phó Tổng thống để thuyết phục Tướng Trưởng nên bỏ Huế.
Theo Đại Tướng Viên thuật lại trong cuốn Những Ngày Cuối Cùng Của VNCH (trang 162-163):
“Tướng Trưởng trình bày kế hoạch với hai giải pháp:
Vì lúc ấy “không thể rút quân theo kế hoạch thứ nhất được vì đoạn đường Huế-Đà Nẵng, Chu Lai-Đà Nẵng đã bị chốt, làn sóng tỵ nạn lại đang từ mọi ngả dùng con lộ duy nhất này để chạy về Đà Nẵng, nên Tướng Trưởng kết luận: ‘Chúng ta chỉ có một chọn lựa, và chúng ta phải thi hành ngay trước khi quá trễ.‘
Chọn lựa của tướng Trưởng là rút quân về Huế, Đà Nẵng, Chu Lai và lợi dụng những công sự phòng thủ đã có trong thành phố, hay địa hình chung quanh, như những cao điểm của những ngọn đồi ngoại thành để chống cự.”
Trong cuộc họp ngày 19/3, Tổng thống Thiệu kể lại là ông đã miễn cưỡng chấp thuận kế hoạch thứ hai của ông Trưởng vì ông Trưởng nói không còn đường nào tháo lui khỏi Huế được nữa vì QL 1 đã bị chặn: “Tôi nói với Tướng Trưởng là mặc dầu lịch sử có thể phán xét tôi như một thằng ngu (imbécile) nhưng vì lòng tôi đối với đất nước, tôi đồng ý.” Sau đó ông Thiệu tiễn ông Trưởng ra khỏi Dinh Độc Lập và nói: “Tôi đợi đến khi anh về tới Đà Nẵng rồi sẽ tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh.”
Tổng thống Thiệu thêm: khi về tới Đà Nẵng thì “Ông Trưởng gọi điện thoại để yêu cầu tôi hãy hoãn lại việc tuyên bố tử thủ Huế trên đài phát thanh, vì có thể ta không giữ nổi Huế.” Tôi hỏi tại sao Tướng Trưởng lại thay đổi?
Tổng thống Thiệu trả lời: “Lý do là khi máy bay vừa đáp xuống Đà Nẵng, Tướng Trưởng nghe Tướng (Lâm Quang) Thi, Tư lệnh phó QĐ I báo cáo là quân đội Bắc Việt đã bắt đầu pháo vào Bộ chỉ huy rồi.”
Việc Tướng Thi báo cáo Bộ tư lệnh của ông đã bị pháo thì Đại tướng Viên cũng xác nhận trong cuốn hồi ký của ông (sđd., trang 164-165). Nhưng việc Tướng Trưởng xin hoãn tuyên bố cố thủ Huế trên đài phát thanh thì chưa thấy ai nói tới.
Cũng theo lời Tổng thống Thiệu, vì ông đã miễn cưỡng đồng ý với Tướng Trưởng về việc giữ Huế mà bây giờ lại thấy ông Trưởng dè dặt, lung lạc nên nhân cơ hội này, ông Thiệu lại nói thêm về việc nên bỏ Huế. Ông cho ông Trưởng biết là cả Phó Tổng thống, cả Thủ tướng đều chống lại việc giữ cả hai nơi – Huế và Đà Nẵng- cùng một lúc.
Nhưng mặc dù Tổng thống Thiệu tỏ ý dè dặt, Tướng Trưởng vẫn tiến hành kế hoạch giữ ba cứ địa Huế, Chu Lai và Đà Nẵng, vì Quốc Lộ 1 đã bị chận rồi, không thể rút được nữa, vả lại ông cho rằng Tổng thống tuy dè dặt nhưng chưa rút lại lệnh đó.
Vào thời điểm này thì Đài BBC luôn loan báo đầy đủ chi tiết về cuộc triệt thoái Pleiku và tiên đoán là quân đội Bắc Việt sẽ tới vùng phụ cận Sàigòn trong vòng vài ba tuần lễ vì Quốc lộ 14 từ Ban Mê Thuột đã mở rộng. Đài VOA thì tường thuật về vụ nhóm Dân chủ ở Hạ viện đã bỏ phiếu chống viện trợ bổ túc cho Miền Nam (ngày 12 tháng Ba) với số phiếu 189-49; rồi nhóm ở Thượng viện theo sau với số phiếu 34-6.
Binh sĩ nghe liên tục như vậy nên tinh thần sa sút rất nhanh. Từ Miền Trung, đơn xin tiếp liệu về thực phẩm, dược phẩm, nhà tạm trú cho gia đình binh sĩ và nhân dân di tản tới tấp bay về Sàigòn, nhưng chính phủ trung ương đã hầu như cạn kiệt.
Năm ngày trăn trở về Huế
Ngày 23 tháng Ba 1975, theo Thủ tướng Nguyễn Bá Cẩn trong hồi ký Đất Nước Tôi: “Tướng Trưởng họp bộ tham mưu tại Đà Nẵng, ra chỉ thị cho Tướng Thi tử thủ Huế nhưng đồng thời phải có kế hoạch để sẵn sàng di tản về Đà Nẵng nếu tình thế đòi hỏi. Đến đây ai cũng nhận thấy tình hình cố đô Huế rất nguy kịch, nếu không nói là tuyệt vọng.” Sau đó, sáng ngày 24 tháng Ba, Tướng Thi và Bộ Tư lệnh tiền phương đáp tầu Hải quân đi Đà Nẵng…”
……….
……….
Ngày 25 tháng Ba, theo Đại tướng Viên:
“Tất cả các đơn vị của Quân đoàn I tụ lại tại ba phòng tuyến chánh: nam Chu Lai, Đà Nẵng (kể cả Hội An) và Bắc thành phố Huế… Tinh thần binh sĩ xuống thấp và chán nản. Từ lâu, chinh chiến hết trận này đến trận nọ, nhưng chưa bao giờ họ nằm trong cảnh tuyệt vọng như vầy… Trong tình thế thất vọng đó, Quân đoàn I nhận thêm một quân lệnh từ Dinh Độc lập: Tổng thống Thiệu ra lệnh Tướng Trưởng dùng ba sư đoàn cơ hữu của quân đoàn để phòng thủ Đà Nẵng. Sư đoàn TQLC được đóng vai trừ bị. Đêm đó Tướng Trưởng ra lệnh cho Sư đoàn 1BB và các đơn vị chung quanh Huế rút về Đà Nẵng…”
“Kế hoạch di tản lực lượng khỏi Huế bắt đầu bằng cách cho sư đoàn 1BB và các đơn vị cơ hữu của sư đoàn rút ra Cửa Tư Hiền…” (sđd., 171).
Lệnh bỏ Huế ngày 25/3/1975
Như viện dẫn ở đầu bài, trong buổi họp ngày 25 tháng Ba, sau khi Tổng thống Thiệu hỏi Tướng Trưởng “nếu ông quyết định giữ Huế thì được bao lâu,” ông Trưởng trả lời là chỉ giữ được “ngày một ngày hai,” ông Thiệu lập lại cho mọi người nghe, rồi ra lệnh: “Vậy nếu không giữ được, phải quyết định ngay, và nếu quyết định (bỏ Huế) thì phải làm cho lẹ.”
Tới đây ông Thiệu không nhắc lại thêm các câu trả lời sau đó của ông Trưởng nữa. Ông đặt ống nói xuống, và nói: “Ông Trưởng rất depressed” (chán nản). Sau khi tham khảo với Đại tướng Viên, Tổng thống Thiệu ra chỉ thị cho ông gửi công điện cho Tướng Trưởng, đưa ra ba lệnh (và tôi ghi rất rõ ràng xuống cuốn sổ tay còn giữ được):
“Thứ nhất, bỏ Huế;
“Thứ hai, phải làm cho lẹ; và
“Thứ ba, tử thủ Đà Nẵng.”
Tổng thống Thiệu thở dài: “Mình trông cậy vào ba ‘enclaves’ (cứ điểm), mà bây giờ chỉ còn một ở Đà Nẵng.” Nghe vậy, ông Bắc và tôi bàng hoàng nhìn nhau. Như vậy là đã có lệnh chính thức bỏ Huế.
Trong cuốn ‘Decent Interval,’ tác giả Frank Snepp viết về lòng thương của Tướng Trưởng đối với binh sĩ và hậu quả như sau:
“Đang khi Tướng Trưởng trình bày với Tổng thống Thiệu về kế hoạch của ông thì số quân đội mà ông cần để thi hành này lại đang tan rã (disintegrating). Và đó là lỗi ông ta một phần (He was partly to blame). Mấy ngày trước đó ông đã cho phép quân nhân của SĐ I được phép lo cho an toàn của gia đình họ. Ông đã làm như vậy là vì lòng thương của một tư lệnh đối với binh sĩ, nhưng khi Quốc Lộ I đã bị chận rồi thì chỉ thị này đã dẫn tới hỗn loạn, vì sĩ quan cũng như quân nhân đã bỏ đồn từng loạt để lo cho thân nhân tìm lối thoát.”
Số phận quân nhân
Nơi đây, tôi mở ngoặc để nhắc lại về tình trạng kinh tế khó khăn của thân nhân người binh sĩ trước khi sụp đổ. Từ mùa hè 1974, sau khi giá xăng dầu tăng lên gấp ba lần, ngân sách không còn đủ khả năng tăng lương cho quân đội để đáp ứng với lạm phát vì viện trợ đã bị cắt gần hết.
Chính phủ chỉ định cho mỗi bộ nhận một sư đoàn để tìm cách giúp đỡ. Sư đoàn 1 được giao cho Bộ Kế hoạch.
Trong một chuyến đi Huế thăm sư đoàn này, chúng tôi được Chuẩn tướng Nguyễn Văn Điềm đưa đi thăm hỏi gia đình binh sĩ.
Ông tâm sự rằng để cho thân nhân sống trong các lều, bạt ngay sát trại như thế này thì thật là nguy hiểm khi bị pháo kích và cũng thật khó khăn khi phải chuyển quân, nhưng phải chấp nhận vì với số lương quá ít ỏi, người lính phải chi tiêu chung với gia đình.
Thật vậy, với 20.000 đồng một tháng (mãi lực bằng khoảng $28 đô la), người quân nhân chỉ có thể mua gạo, nước mắm cho gia đình, còn lại rất ít cho những nhu cầu khác như thuốc men, may mặc, giáo dục con cái, giải trí.
Ngày 26 tháng Ba, 1975 một buổi họp tiếp theo tại Dinh Độc Lập vào lúc 10 giờ sáng. Có mặt tại buổi họp gồm Tổng thống Thiệu, Ngoại trưởng Bắc và chúng tôi.
Cuộc họp này là để bàn về việc tìm cách để cấp tốc khai thác hai bức thư của Chủ tịch Thượng viện Trần Văn Lắm và Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn viết cho hai Chủ tịch Lưỡng viện Quốc hội Hoa Kỳ ngày hôm trước (25 tháng Ba). Giữa cuộc họp thì Tổng thống Thiệu lại nhấc điện thoại nói chuyện với Tướng Trưởng về Huế:
Tổng thống Thiệu: “Anh Trưởng hả? Tình hình Huế thế nào?‘
Tướng Trưởng (theo như lời ông Thiệu nhắc lại trong phòng họp): “Đang bị đánh vài trận.”
Cùng ngày bỏ Huế, Tổng thống Thiệu chỉ thị cho tôi trình ông bản thảo chót về bức thư cầu cứu Tổng thống Ford.
Mở đầu có câu: “Thưa Tổng thống, lúc lá thư này tới tay Ngài, thành phố Huế có lẽ đã bị bỏ ngỏ, và rất có thể chính Sàigòn cũng bị đe dọa.”
Ông Thiệu gạch ngay câu mở đầu đi vì Huế đã bị bỏ ngỏ rồi. Trên đầu thư chúng tôi đề “Saigon, March…, 1975” để trống con số về ngày gửi, vì chưa biết ông định gửi thư ngày nào. Lúc ấy ông lấy bút chì xanh viết xuống số “25” thật to, tức là “Saigon, March 25, 1975“.
Tôi còn nhớ rõ khuôn mặt buồn thảm của ông lúc ấy. Ông bảo tôi đưa bản văn cho Chánh văn phòng tổng thống là Đại tá Cầm để cho đánh máy và chuyển cho Đại sứ Graham Martin ngay.
Gửi thư đi rồi, Tổng thống Thiệu chờ đợi từng giây phút về phản ứng của Tổng thống Ford.
Nhưng nhận được thư SOS, Tổng thống Ford lờ đi, không hồi âm, măc dù khi lên nhậm chức tổng thống thay Nixon vào mùa hè 1974 ông đã viết cho ông Thiệu ngay ngày làm việc đầu tiên tại Tòa Bạch Ốc:
“Những cam kết mà nước Mỹ đã hứa hẹn với Việt Nam Cộng hòa trong quá khứ vẫn còn hiệu lực và sẽ được hoàn toàn tôn trọng trong nhiệm kỳ của tôi” (thư ngày 10 tháng 8, 1974, xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 194-196).
Tổng thống Ford chỉ làm một nghĩa cử để biểu diễn. Trong cuốn hồi ký A Time to Heal (1979) ông viết lại:
“Chiều ngày 25 tháng Ba (ngày 26 giờ Sài Gòn), tôi họp với các ông Kissinger, Scowcroft, Martin và Tướng Weyand, Tham mưu trưởng Lục quân. Mọi người đều biết là tình hình Miền Nam rất trầm trọng, nhưng chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào. Tôi yêu cầu ông Weyand bay sang Sài Gòn sớm nhất có thể, ở đó một tuần rồi mang về một báo cáo đầy đủ.”
Nói rằng “Chẳng ai biết nó nguy kịch như thế nào” thì đúng là nói dối.
Ông đã nhận được thư SOS của Tổng thống Thiệu và của lưỡng viện Việt Nam Cộng hòa, lại được nghe Đại sứ Graham Martin từ Sài Gòn về báo cáo. Sau này Đại sứ Martin còn nói lại với chúng tôi là sau khi ông họp nhiều lần với Tổng thống Thiệu, cũng như đã có đầy đủ tin tức chiến trường do ông Polgar (Giám đốc CIA ở Sài Gòn) cung cấp, ông đã báo cáo rất chi tiết cho cả hai ông Kissinger và Ford. Như vậy là trong hồi ký, trước sự đã rồi, Tổng thống Ford chỉ biện luận cho hành vi phản bội của mình.
Hồn khí linh thiêng nơi cố đô
Vừa rút khỏi Huế buổi sáng thì bưổi chiều lại một tin sét đánh, hy vọng cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa để có chút tiền sống cầm hơi đã bị tan biến.
Vào cuối năm 1974, một tia sáng loé lên. Có ông vua dầu lửa người xứ Arabia chiếu cố đến Miền Nam. Vua Saud al Faisal cho biết ông có rất nhiều thiện cảm với nhân dân Miền Nam và đã bí mật đồng ý cho Miền Nam vay một số tiền để mua tiếp liệu (xem Khi Đồng Minh Tháo Chạy, trang 474).
Thật là một cơ hội quý báu. Đang lúc nguy kịch lại có nhà hảo tâm đến cứu. Vua Faisal bằng lòng cho vay dài hạn $300 triệu (để bù đắp cho số tiền vừa bị Quốc hội Mỹ vét nạo hết). Bao nhiêu hy vọng tràn trề. Họp lên họp xuống, nhất thiết là phải thực hiện ngay kế hoạch này để tới 1975/76 còn giữ được một phần lượng nhập cảng những hàng thiết yếu. Đặc biệt là dầu, xăng, thực phẩm, thuốc men, và phân bón. Nếu quá khan hiếm những sản phẩm này thì chắc chắn sẽ có khủng hoảng lớn.
Nhưng đúng là “hoạ vô đơn chí.” Những cái rủi ro nó hay theo nhau mà đến. Đang lúc chúng tôi sửa soạn để cùng với Ngoại trưởng Vương Văn Bắc lên đường đi Riyadh đàm phán, mong sớm có giải ngân, thì đùng một cái, vua Faisal bị chính cháu ruột mình sát hại một cách thảm thương ngay trong hoàng cung.
Chính phủ Miền Nam bàng hoàng. Tổng Thống Thiệu gửi điện văn chia buồn cùng Hoàng gia, nói tới nghĩa cử cao đẹp của ngài Faisal, cầu xin cho Allah sớm đưa Ngài về nơi cực lạc. Vì tình cảm cao đẹp ấy, Việt Nam Cộng hòa yêu cầu Hoàng gia tiếp tục thực hiện công cuộc yểm trợ Miền Nam như Ngài đã vạch ra.
Thế nhưng, trong lúc tang gia bối rối, tình hình quốc nội xáo trộn, Hoàng gia Saudi đâu còn thời giờ hay tinh thần mà để ý đến chuyện của nước khác.
Đứng về khía cạnh tâm linh, tôi tự hỏi làm sao lại có sự trùng hợp giữa cố đô Hoàng Triều Huế và ông vua xứ Saudi cùng một ngày như vậy? Phải chăng đã đến lúc vận nước suy tàn?
Bài viết thể hiện quan điểm riêng của tác giả, tiến sỹ Nguyễn Tiến Hưng, Cựu Tổng trưởng Kế hoạch VNCH từ năm 1973 đến 1975, phụ tá về tái thiết của Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu. Hiện định cư tại Hoa Kỳ, ông đã xuất bản các cuốn sách Khi Đồng minh tháo chạy (2005) và Khi Đồng minh nhảy vào (2016).
nguon