Ảnh OnTheNet Hoàng Đế Bảo Đại của Việt Nam
Gs Phạm Cao Dương (02.09.2010) Trọng tâm, Xã hội – Trong lịch sử tranh đấu giành độc lập của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ hai mươi, hai lần nước ta đã được các nhà cầm quyền đương thời chính thức tuyên bố độc lập. Lần thứ nhất vào ngày 11 tháng 3 năm 1945 bởi Hoàng Đế Bảo Đại và lần thứ hai bởi Chủ tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa Hồ Chí Minh vào ngày 2 tháng 9 năm 1945.
Hai lần cả thảy, nhưng đa số người Việt chỉ biết hay chỉ được học có một lần. Họ chỉ biết có bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 mà không biết bản tuyên ngôn của Bảo Đại ngày 11 tháng 3. Lịch sử do đó chỉ được biết có một nửa thay vì toàn vẹn. Bài này nhằm bổ khuyết cho tình trạng thiếu sót đó, đồng thời phân tích nội dung và ý nghĩa của từng bản.
TUYÊN NGÔN CỦA BẢO ĐẠI :
Hoàn cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn độc Lập của Bảo Đại được công bố ngày 11 tháng 3 năm 1945, hai ngày sau khi Nhật đảo chính Pháp ở Đông Dương và sau một thời gian dài hơn bốn năm, từ tháng 9 năm 1940, sau khi quân Nhật vào phần đất này của Đông Nam Á và gần năm tháng trước khi Nhật Bản đầu hàng và Thế Chiến Thứ Hai kết thúc. Trong thời gian này Việt Nam bị sống dưới sự cai trị của cả người Pháp, từ sau khi Hòa Ước 1884 được ký kết, lẫn người Nhật, từ ngày 22 tháng 9 năm 1940, với một hậu quả khủng khiếp là Trận Đói Tháng Ba Năm Ất Dậu. Hoàn cảnh này đã làm cho không chỉ riêng những người Cộng Sản, vốn chủ trương đánh đổ chế độ quân chủ để cướp chính quyền (chữ của chính người Cộng Sản) để từ đó thực thi cách mạng vô sản mà luôn cả những người không có cảm tình với chế độ quân chủ đương thời và chủ trương lật đổ chế độ này để thay thế bằng một chế độ dân chủ, không nhìn nhận giá trị đích thực của nó. Bảo Đại bị coi như một ông vua bù nhìn, trước kia trong tay người Pháp và lúc đó trong tay người Nhật. Theo họ trước kia người Pháp bảo sao, ông làm vậy và sau đảo chính 9 tháng 3 năm 1945, người Nhật bảo ông tuyên bố độc lập thì ông tuyên bố độc lập, thế thôi. Người ta hiểu hay được học đơn giản như vậy. Nền độc lập mà Bảo Đại tuyên bố chỉ là do người Nhật ban cho và bản tuyên ngôn của ông chẳng có một giá trị gì trong lịch sử đấu tranh giành độc lập của người Việt. Thực chất của nó chỉ là sự tuyên bố công khai việc thay thầy đổi chủ của triều đình Bảo Đại(1) không hơn không kém. Sự thực không đơn giản như vậy. Người Nhật có lý do làm đảo chính lật đổ người Pháp và Bảo Đại có lý do phải chấp nhận yêu cầu của người Nhật tuyên bố Việt Nam độc lập. Lý do của Bảo Đại đã được ông giải thích khi tiếp kiến Trần Trọng Kim và cố gắng thuyết phục ông này chấp nhận làm thủ tướng đầu tiên của chính phủ Nam Triều độc lập. Nguyên văn câu nói được Trần Trọng Kim kể lại như sau: -Trước kia nước Pháp giữ quyền bảo hộ nước ta, nay đã không giữ được nước cho ta, để quân Nhật đánh đổ, vậy những điều trong hiệp ước năm 1884 không có hiệu quả nữa, nên Bộ thượng thư đã tuyên hủy hiệp ước ấy. Trẫm phải đứng vai chủ trương việc nước và lập chính phủ để đối phó mọi việc.(2)
Người ta cần phải nhớ là hơn mười năm trước đó, sau khi du học từ Pháp về tới Huế được hai ngày, ngày 10 tháng 9 năm 1932, Bảo Đại đã ra Dụ số 1 tuyên bố chấp chính và khẳng định chế độ quân chủ của Nam Triều hủy bỏ Quy Ước 6 tháng 11 năm 1925 do Hội Đồng Phụ Chính, đứng đầu là Tôn Thất Hân, ký với Toàn Quyền Đông Dương thời ông còn nhỏ tuổi và đang du học bên Pháp, tước bỏ hầu hết các quyền hành còn lại của nhà vua trừ các quyền có tính cách nghi lễ, ân xá, sắc phong, tế lễ…kèm theo nhiều dụ khác nhằm thực hiện những cải cách qui mô trong nền hành chánh của chính phủ Nam Triều, nhưng đã bị người Pháp ngăn cản và bị thất bại. Đảo chính 9 tháng 3 năm 1945 và lời yêu cầu tuyên bố độc lập của người Nhật dù gì đi chăng nữa cũng là điều vị hoàng đế còn trẻ tuổi từ lâu mong đợi. Ngoài ra theo nhận định và giải thích nhằm thúc đẩy Trần Trọng Kim chịu khó lập chính phủ mới. Ông nói :
-Trước kia người mình chưa độc lập. Nay có cơ hội, tuy chưa phải độc lập hẳn, nhưng mình cũng phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập. Nếu không có chính phủ thì người Nhật bảo mình bất lực, tất họ lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Vậy ông nên vì nghĩa vụ cố lập thành một chính phủ để lo việc nước.(3)
Hai tiếng cơ hội Bảo Đại dùng ở đây cho ta thấy ông từ lâu mong có dịp này. Đồng thời ông cũng hiểu rằng nền độc lập mà ông tuyên cáo chưa phải độc lập hẳn. Chưa hết, tuyên bố rồi ông còn có nhu cầu phải tỏ ra có đủ tư cách để độc lập và nhất là để tránh không để cho người Nhật lập cách cai trị theo thể lệ nhà binh rất hại cho nước ta. Một sự e ngại chỉ có những người có kiến thức về lịch sử và chính trị học mói biết được. Ngoài ra những tiếng rất có hại cho nước ta cũng cho người ta thấy đối tượng của hành động tuyên cáo độc lập của ông không phải là ngôi vua mà là đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam, đất nước của ông và thần dân của ông. Cái nhìn và quan điểm này cũng như sự hiểu biết của ông về tình hình thế giới và thế tất bại của người Nhật về sau đã được ông nói rõ trong hồi ký của ông. Riêng đối với người Nhật, ông đã không tin tưởng ở họ cũng như chiêu bài Đại Đông Á của họ. Nói cách khác Bảo Đại ở vị thế phải chấp nhận nhập cuộc dù ông hiểu rõ sự phức tạp của vấn đề. Phần khác như ông cũng nói tới trong hồi ký của ông: Độc lập là ước mơ của tất cả mọi người Việt Nam thời đó.
Nội dung bản Tuyên ngôn :
Đây là một bản văn tương đối ngắn so với những bản văn cùng loại, nhằm ba mục tiêu chính yếu là hủy bỏ hòa ước Triều Đình Huế đã ký với nước Pháp, tuyên bố Việt Nam độc lập, đứng vào khối Đại Đông Á trong chương trình phát triển chung, đồng thời bày tỏ sự tin tưởng vào lòng thành của nước Nhật với nguyên văn như sau:
Cứ tình hình chung trong thiên hạ, tình thế riêng cõi Đông Á, chính phủ Việt Nam tuyên bố từ ngày này điều ước bảo hộ với nước Pháp bãi bỏ và nước Nam khôi phục quyền độc lập.
Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và theo như lời tuyên ngôn chung của Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung. Vậy Chính Phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc, quyết chí hợp tác với nước Nhật, đem hết tài sản trong nước để đạt được mục đích như trên.(4)
Bản Tuyên Bố được đề ngày 11 tháng Ba năm 1945 tức ngày 27 tháng Giêng năm Bảo Đại thứ 20 được Bảo Đại ký tên với sáu thượng thư phó thự.
Đọc bản Tuyên Ngôn Độc Lập này của Bảo Đại, người ta cần chú ý tới những chi tiết sau đây:
Thứ nhất: Điều ước bị hủy bỏ ở đây là Hòa Ước Giáp Thân được ký kết giữa Triều Đình Huế và người Pháp ngày 6 tháng 6 năm 1884, đặc biệt hai điều khoản là điều khoản thứ nhất, theo đó Việt Nam công nhận và chấp nhận Quyền Bảo Hộ của nước Pháp và điều khoản thứ mười lăm, theo đó nước Pháp cam kết bảo đảm sự toàn vẹn lãnh thổ của các xứ do vua Việt Nam cai trị và bảo vệ nhà vua chống lại những sự xâm nhập từ bên ngoài và những cuộc nổi loạn từ bên trong…(5). Sự hủy bỏ này phải được hiểu là do người Pháp bất lực không bảo vệ được Việt Nam trước sự bành trướng của quân đội Nhật và cuối cùng là chính họ đã bị người Nhật lật đổ trong cuộc Đảo Chính 9 tháng 3 năm 1945. Sự hủy bỏ này cũng có tính cách đơn phương từ phía Bảo Đại với tư cách là người kế vị chính thống của Triều Đình Nhà Nguyễn căn cứ vào những gì đã xảy ra vào thời điểm này. Điểm cần được lưu ý ở đây là từ ngữ hòa ước trong văn kiện này được dùng theo số ít, trong tiếng Việt, không có chữ các đi kèm và trong tiếng Pháp không có chữ s theo sau. Điều này có nghĩa là bản tuyên cáo chỉ hủy bỏ hòa ước bảo hộ tức Hòa Ước Giáp Thân 1884 mà thôi thay vì hủy bỏ tất cả các hòa ước đã được ký kết trước đó. Đó là các Hòa Ước Nhâm Tuất 1862 và Hòa Ước Giáp Tuất 1874 liên hệ tới xứ Nam Kỳ. Vấn đề thâu hồi xứ Nam Kỳ do đó đã trở thành mối bận tâm và một phần hành quan trọng của chính Bảo Đại ngay từ buổi nhà vua tiếp kiến Đại Sứ nhật Yokoyama liên hệ tới việc tuyên cáo độc lập và của chính quyền Bảo Đại – Trần Trọng Kim trong gần suốt thời gian tồn tại. Xứ Nam Kỳ chỉ được người Nhật trao trả trong những ngày cuối của chính quyền này.
Thứ hai: Nước Việt Nam sẽ gắng sức tự phát triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập….giúp cho cuộc thịnh vượng chung. Câu này xác định phương thức hoạt động nhăm thực hiện tư cách độc lập (tự phát triển như một quốc gia độc lập không phụ thuộc vào nước ngoài cho xứng đáng một quốc gia độc lập) và thế đứng của Việt Nam trên trường quốc tế (tự coi mình là một phần tử Đại Đông Á, đem tài lực giúp cho cuộc thịnh vượng chung). Nên để tới khẩu hiệu Châu Á của Người Á do người Nhật đưa ra trong thời này, một khẩu hiệu hàm chứa sự độc lập của các nước Á Châu lúc đó là thuộc địa của các đế quốc Âu Châu. Đây cũng là một cách nói trước một cách khéo léo để ngăn chặn trước sự can thiệp vào nội tình Việt Nam của người Nhật.
Thứ ba: Chính phủ Việt Nam một lòng tin cậy lòng thành ở Nhật Bản đế quốc…Câu này nhằm buộc chặt lời hứa của người Nhật bằng cách nhấn mạnh vào sự trung thành với những gì họ đã nói của họ, một truyền thống chung của các dân tộc Á Đông.
Thứ tư: quyết chí hợp tác với nước Nhật đem hết tài sản trong nước để đạt được mục đích như trên. Mục đích như trên là mục đích gì? Phải hiểu mục đích này bao gồm hai phần là tự tiến triển cho xứng đáng một quốc gia độc lập và giúp cho cuộc thịnh vượng chung như là một phần tử Đại Đông Á. Nói cách khác, đây là một bản văn tuy ngắn ngủi, cô đọng nhưng rất quan trọng vì nó vừa mang tính cách pháp lý, có liên hệ tới nhiều văn kiện ngoại giao khác đã được hình thành trước đó, vừa biểu lộ chủ trương của một quốc gia được trao trả độc lập trong một hoàn cảnh không nhận không được, vô cùng tế nhị và phức tạp vào lúc tình hình thế giới biến chuyển quá nhanh và hoàn toàn bất lợi cho quân đội và quốc gia đảm nhận sự trao trả nền độc lập này. Mỗi điều nói ra, mỗi chữ được viết đều đòi hỏi người soạn thảo phải vô cùng thận trọng và ước tính kỹ càng.
Ai là tác giả của bản tuyên ngôn này?
Người được nói đến nhiều nhất là Phạm Quỳnh, lúc đó đang giữ chức thượng thư bộ lại. Điều này có nhiều phần đúng nếu người ta để ý tới khả năng nghị luận và viết văn, viết báo kèm theo sự hiểu biết của ông trước đó. Nó cũng được Phạm Khắc Hòe, Ngự Tiền Văn Phòng Tổng Lý của Bảo Đại trong hồi ký của ông này xác nhận.(6)
BẢN TUYÊN NGÔN CỦA HỒ CHÍ MINH :
Hoàn cảnh được công bố
Bản tuyên ngôn này đã được Hồ Chí Minh đọc tại Quảng Trường Ba Đình ở Hà Nội vào buổi chiều ngày 2 tháng Chín năm 1945, ngót năm tháng sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, hơn hai tuần lễ sau khi Nhật Bản đầu hàng, mười ba ngày sau khi Việt Minh cướp được chính quyền ở Hà Nội và hai ngày sau khi Bảo Đại chính thức thoái vị. Vì được công bố sau bản tuyên ngôn của Bảo Đại, sau khi người Nhật đã đầu hàng cũng như chế độ bảo hộ của người Pháp đã bị người Nhật lật đổ trước đó, bản tuyên ngôn này đã bị nhiều người cho là thừa, không cần thiết, chưa kể tới sự kiện là chính phủ mới do Hồ Chí Minh thành lập là kế vị chính phủ Nam Triều do Bảo Đại thoái vị nhường cho dựa theo chiếu thoái vị của Bảo Đại và đã được Hồ Chí Minh và chính phủ mới của ông chấp nhận. Chính Phủ Lâm Thời của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong những điều kiện này đương nhiên kế tục những gì Bảo Đại và chính phủ Trần Trọng Kim đã làm trước đó, trong đó có Bản Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 11 tháng 3 năm 1945. Lập luận như vậy là hoàn toàn hợp lý đứng trên phương diện pháp lý. Một lập luận đơn giản và hoàn toàn dễ hiểu.
Câu hỏi được đặt ra là Hồ Chí Minh, và những cộng sự viên của ông, khi đưa ra bản tuyên ngôn của mình có biết là trước đó Bảo Đại đã làm công việc này rồi hay không? và biết như vậy tại sao ông lại còn làm lại việc đó một lần nữa? Cho câu hỏi thứ nhất, câu trả lời là chắc chắn có; Hồ Chí Minh chắc chắn phải biết là Bảo Đại trước đó đã tuyên cáo hủy bỏ hòa ước bảo hộ 1884 rồi. Nhưng ông vẫn làm lại công việc này vì ông có nhu cầu phải làm. Những nhu cầu đó là những nhu cầu gì? Thứ nhất là vì từ lâu toàn dân ai nấy đếu khao khát được thấy nước nhà độc lập, đúng như Bảo Đại đã viết trong hồi ký của ông, độc lập là ước mơ của mọi người dân Việt(7), cũng như nó được phản ảnh ở khắp nước ngay trước và sau ngày 2 tháng 9 năm 1945. Nói tới độc lập vào lúc đó là gõ đúng tần số của bất cứ một người dân Việt Nam nào. Thứ hai là cho tới ngày 2 tháng 9 năm 1945, cái tên Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ ở trong nước cũng như ở ngoài nước. Võ Nguyên Giáp, một trong những cộng sự viên thân cận nhất của Hồ Chí Minh trong thời gian này, đã viết trong hồi ký của ông này rằng: Ba tiếng HỒ CHÍ MINH không bao lâu đã vang đi khắp thế giới với những truyền thuyết mà người ta thường dành cho các bậc vĩ nhân. Nhưng vào ngày hôm ấy, cái tên mới của Bác vẫn còn mới lạ với nhiều đồng bào. Số người biết Bác chính là đồng chí Nguyễn Ái Quốc khi đó không nhiều.(8) Ngay vua Bảo Đại ngày 23 tháng 8 năm 1945, khi nhận được điện tín của của các ông Nguyễn Xiển, Nguyên Văn Huyên, Ngụy Như Kon-Tum và Hồ Hữu Tường nhân danh Ủy Ban Nhân Dân Cách mạng, yêu cầu nhà vua thoái vị nhường quyền lãnh đạo quốc gia cho Chính Phủ Nhân Dân Cách mạng với chủ tịch là Cụ Hồ Chí Minh đã không biết Hồ Chí Minh là ai. Còn Phạm Khắc Hòe, người được Việt Minh gài vào cạnh nhà vua cũng không biết nốt, phải chạy đi hỏi Tôn Quang Phiệt, rồi Đào Duy Anh nhưng Tôn Quang Phiệt đi vắng và Đào Duy Anh lục lọi, truy tìm các tài liệu , sách vở ông có nhưng cũng không ra tên này. Cuối cùng Vũ Văn Hiền, ở Bắc về mới xác nhận Hồ Chí Minh là Nguyễn Ái Quốc.(9) Tuyên bố Việt Nam độc lập đối với Hồ Chí Minh vào thời điểm này do đó là cách tự giới thiệu mình tốt nhất và hữu hiệu nhất vói toàn thể đồng bào và để được nhìn và được chấp nhận như là lãnh tụ đầu tiên đã mang lại được độc lập cho tổ quốc và cho toàn dân Việt Nam, một nhu cầu tối cần thiết, dầu rằng nền độc lập này hoàn toàn không phải do ông hay do Mặt Trận Việt Minh tạo ra mà là do những biến cố khác của lịch sử, trong đó quan trọng nhất là Đảo Chính 9 tháng Ba năm 1945, trong đó người Nhật đã loại bỏ người Pháp và cuối cùng là sự bại trận sau này của người Nhật.
Chúng ta cũng cần để ý là đối với đa số người Việt Nam thời đó, ngày 2 tháng 9 là Ngày Độc Lập, đúng như Nguyễn Hữu Đang, người được Hồ Chí Minh chỉ định tổ chức ngày này gọi qua các văn thư chính thức ông đã gửi cho các cơ quan liên hệ, trong đó có thư gửi cho Thị Trưởng Hà Nội(10) và theo bìa in bản tuyên ngôn của bản đầu tiên năm 1945, do Chủ Tịch Chính Phủ Lâm Thời Việt Nam Hồ Chí Minh đọc trong Ngày Độc Lập.(11) Nhưng đối với Hồ Chí Minh ngày 2 tháng 9 còn có một ý nghĩa quan trọng hơn nữa. Đó là ngày khép lại cuộc Cách mạng tháng Tám, và khai sinh nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, theo lời ông nói với Nguyễn Hữu Đang, Chú phải nhớ…(12)Tại sao vậy? Tại vì Hồ Chí Minh phải làm chuyện này trước khi quân Đồng Minh kéo vô Việt Nam, đặc biệt là thủ đô Hà Nội, nhằm đặt họ trước một sự đã rồi, không thể đảo ngược được.. Sự kiện vua Bảo Đại thoái vị được nhắc tới và câu Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp là nhằm vào mục tiêu này.
Nội dung bản Tuyên Ngôn
Bản Tuyên Ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh vì được phổ biến rộng rãi và hầu như duy nhất cùng với ngày 2 tháng 9 sau đó được coi như Ngày Quốc Khánh của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa và sau này là của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam nên đã được nhiều người đọc, phân tích, tìm hiểu. Trong phần này người viết chỉ nêu lên những gì ít được người ta nhắc hay để ý đến.
Trong khi Tuyên Cáo của Bảo Đại đơn giản chỉ là một bản văn thuần túy pháp lý hủy bỏ hòa ước bảo hộ mà triều đình Huế đã ký trước đó căn cứ vào sự bất lực của người Pháp không giữ được cam kết đã được ghi trong điều khoản thứ nhất và điều khoản thứ mười lăm của hòa ước này mà không nhằm vào một đối tượng- quần chúng hay quốc tế, thì bản Tuyên Ngôn của Hồ Chí Minh nhằm vào toàn thể người Việt qua lời mở đầu “Hỡi đồng bào cả nước” nhưng ở những đoạn cuối lại nhắm vào các nước Đồng Minh. Điều này phải tinh ý người ta mới nhận ra được. Về tư cách, Bảo Đại nhân danh Hoàng Đế Việt Nam, người đứng đầu của một quốc gia độc lập đã tồn tại từ trước khi người Pháp xâm lăng và là người kế thừa chính thống của các vua Nhà Nguyễn, thì Hồ Chí Minh đã nhân danh Lâm Thời Chính Phủ của nước Việt Nam mới. Mới là vì đến ngày đó chính phủ này mới chính thức được ra mắt trước quốc dân. Lời văn do đó phản ảnh hai tư cách của hai bản chất con người khác nhau. Một người là hoàng đế kế thừa chính thống của một triều đại đã trị vì một quốc gia từ hơn một trăm năm trước cho dù là chỉ còn hư vị; một người là lãnh tụ của một phong trào cách mạng vừa chủ trương chống Pháp, vừa chủ trương chống Nhật và lật đổ chế độ quân chủ để giành chính quyền. Văn phong trong bản tuyên ngôn của Bảo Đại là văn phong bình thường của người cầm quyền; còn văn phong của Hồ Chí Minh mang tính cách kêu gọi và ở một mức độ nào đó có tính cách bình dân, kể lể dài dòng và nhất là xách động.
Mở đầu cho bản tuyên ngôn, Hồ Chí Minh đã trích dẫn một số câu trong phần đầu của Bản Tuyên Ngôn Độc Lập của người Mỹ và một câu trong Bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp. Sự trích dẫn này, vào lúc mà sự hiểu biết của quần chúng Việt Nam còn thấp kém, đặc biệt là về lịch sử Hoa Kỳ và thế giới chắc chắn không nhằm vào quần chúng người Việt mà nhằm vào người Mỹ và người Pháp. Lý do là Hồ Chí Minh như là một đảng viên Cộng Sản Quốc Tế chắc chắn đã hiểu hơn ai hết là người Mỹ vào thời điểm này đã đóng một vai trò vô cùng quan trọng trong chính tình ở Á Châu, trong đó có Việt Nam. Được nguời Mỹ công nhận là coi như làm chủ được chính quyền. Hiểu được như vậy, ngay từ khi còn ở chiến khu Hồ Chí Minh khi tiếp xúc với người Mỹ đã yêu cầu họ cung cấp cho ông một bản Tuyên Ngôn Độc Lập của họ, đồng thời khi tiếp xúc với họ, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy rằng nói về lịch sử nước Mỹ với họ là một cách để chinh phục cảm tình của họ. Cũng vậy, với những chứa đựng trong bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của người Pháp. Có điều sự trích dẫn chỉ nhằm một mục tiêu lôi cuốn sự chú ý và cảm tình của người Mỹ mà thôi. Hồ Chí Minh không cần đi xa hơn nữa và rất có thể ông cũng không hiểu rõ hơn hay cố tình không hiểu sự khác biệt trong quá trình giành độc lập của mười ba thuộc địa của người Mỹ vào cuối thế kỷ XVIII và của nước Việt Nam thời ông. Vì vậy ông đã áp dụng quan điểm của người Mỹ về quyền bình đẳng, quyền được sống tự do và mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như-là-những-cá-nhân vào trường hợp Việt Nam như một – quốc – gia đòi quyền độc lập một cách gượng ép hay ít ra là suy luận theo quan điểm chủ quan của mình với dụng ý riêng của mình. Cũng vậy với những gì ông trích dẫn từ bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách Mạng Pháp.
Phần kế tiếp , Hồ Chí Minh lên án người Pháp và người Nhật, đồng thời ông kể công Việt Minh. Trước ngày mồng 9 tháng 3, đã bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật…sau đó đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ, và kết luận là Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt-nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp. Điều như người viết đã nói ở trên là không đúng sự thật. Sự thật là Chính Phủ Bảo Đại – Trần Trọng Kim đã lấy lại được toàn thể nước Việt Nam từ trước khi người Nhật đầu hàng kể cả xứ Nam Kỳ và Việt Minh đã cướp chính quyền từ trong tay của chính phủ Bảo Đại -Trần Trọng Kim trong những ngày 17 và 19 tháng 8 năm 1945 sau đó. Lý do là vì Việt Minh đã có đường riêng của họ rồi, nói theo Phan Anh, Bộ Trưởng Thanh Niên trong Chính Phủ Trần Trọng Kim và sau này là Bộ Trưởng Bộ Quốc Phòng trong Chính Phủ Liên Hiệp của Hồ Chí Minh.Trong những đoạn này Hồ Chí Minh đã dùng các từ ngữ ta hay dân ta hay đất nước ta, nhưng mục đích không nhằm vào người Việt Nam mà vào người Pháp.
Phần cuối cùng của bản văn, từ Bởi thế cho nên…cho đến hết, lời văn cho người ta thấy Hồ Chí Minh không hướng về người Việt mà về cả thế giới. Trong phần này ông xưng là chúng tôi, Lâm thời Chính phủ, đại biểu cho toàn dân Việt -nam để tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, kêu gọi các nước Đồng Minh công nhận quyền độc lập của dân Việt-nam…Phần này Hồ Chí Minh thay vì quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mọi – người – như – những – cá – nhân do Tạo Hóa ban cho, những quyền phải hiểu là tự nhiên ai cũng có, đã nói về quyền hưởng tự do và độc lập của – cả – nước – Việt – Nam. Điều này hoàn toàn trái với tinh thần của bản Tuyên Ngôn Độc Lập của Người Mỹ và nhất là của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp mà danh xưng của nó đã nói lên một cách rõ ràng, không thể hiểu sai được. Không những thế, thay vì coi những quyền này là do Tạo Hóa ban cho, ông lại lý luận là vì dân tộc Việt Nam là Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc ấy phải được độc lập! Lý luận như vậy người ta phải hiểu, theo Hồ Chí Minh, rằng những dân tộc không gan góc chống lại những thế lực đè nén, áp bức mình và không gan góc đứng về phe Đồng Minh, chống phát-xít là không đáng được tự do, độc lập. Cũng vậy, với các quyền độc lập, tự do và mưu cầu hạnh phúc của con người như là những cá nhân trong xã hội. Chính vì vậy Trần thanh Hiệp,khi được Đài Á Châu Tự Do phỏng vấn ngày 2 tháng 9 năm 2007, đã có lý khi ông gọi bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh này là một bản tuyên ngôn phi nhân quyền(13) dù cho là nó đã được chính tác giả của nó trích dẫn và soạn thảo theo tinh thần của bản Tuyên Ngôn Nhân Quyền và Dân Quyền của Cách mạng Pháp.
Người ta có thể giải thích sự thiếu rõ ràng trong bản Tuyên Ngôn Độc Lập kể trên là do nó đã được soạn thảo trong một thời gian quá ngắn và trong tình trạng tác giả (hay những tác giả) của nó còn phải bận rộn với nhiều vấn đề cấp bách khác. Điều này không đúng vì trước đó từ lâu, khi tiếp xúc với một sĩ quan người Mỹ, Hồ Chí Minh đã xin một bản tuyên ngôn của người Mỹ rồi. Nói cách khác, Hồ Chí Minh đã nghĩ tới và đã thai nghén bản tuyên ngôn của ông từ lâu rồi. Do đó những gì ông nói tới, những từ ngữ ông dùng đều được cân nhắc kỹ và đều có dụng ý riêng với những mục tiêu riêng mà chỉ sau này phải phân tích kỹ, đối chiếu kỹ và có thể sau này khi mọi việc liên hệ đã xảy ra rồi, người ta mới có thể hiểu được.
Phạm Cao Dương
Chú thích:
1 – Dương Trung Quốc. Việt Nam : Những Sự Kiện Lịch Sử (1919-1945). HàNội: Nhà Xuất Bản Giáo Dục, 202.tr. 388.
2 – Lệ Thần Trần Trọng Kim. Một Cơn Gió Bụi (Kiến Văn Lục). Saigon, Nhà Xuất Bản Vĩnh Sơn, 1969. tr. 49.
3 – nt – , tr. 51.
4 – Dương Trung Quốc, Việt Nam…, tr. 388; Nguyễn Vỹ. Tuấn, Chàng Trai Nước Việt (Chứng Tích Thời Đại Từ 1900 đến 1970, Quyển II. Saigon, ? , 1970. Fort Smith, AR tái bản ở Hoa Kỳ, ?. tr. 512.; S.M. Bao Dai. Le Dragon d’Annam. Paris, Plon. 1990. Cameron, Allan W. Viet-Nam Crisis, A Documentary History, Volume I: 1940-1956. Ithaca, N.Y. Cornell University Press, 1971.. tr. 31-32. Hai bản tiếng Việt in trong tác phẩm của Dương Trung Quốc và tác phẩm của Nguyễn Vỹ hơi khác nhau ngôn từ những hoàn giống nhau về nội dung. David G. Marr trong Viênam 1945, The quest for Power (Berkeley, University of California Press, 1995, tr. 71) có nói tới các bản tiéng Việt và tiếng Pháp ở văn khố Pháp và bản đăng trên tờ Dân Báo, ngày 12 tháng Ba. Vũ Ngự Chiêu cũng nói tới tờ Tin Mới, nhưng nhất thời người viết bài này chưa đến được các nơi cần đến để tìm kiếm.
5 – Taboulet, Georges. La Geste Francaise en Indochine,Histoire par les textes de la France en Indochine des origines à 1914, tome II, Paris, Adfrien – Maisonneuve, 1956. tr. 809 – 812; Phan Khoang, Việt Nam Pháp Thuộc Sử, 1884 – 1945. Saigon,, ? ,1961. Tái bản ở Hoa Kỳ. tr. 322 – 328.
6 – Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế Đến Chiến Khu Việt Bắc. Huế, Thuận Hóa, 1987, tr. 16 -.
7 – Bảo Đại, Le Dragon d’Annam, đã dẫn, tr. 103.
8 – Võ Nguyên Giáp, Những Năm Tháng Không Thể Nào Quên, trong Tổng Tập Hồi Ký. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Quân Đội Nhân Dân, 206, tr.. 255.
9 – Phạm Khắc Hòe, Từ Triều Đình Huế…, tr. 76.
10 – Phùng Quán, Ba Phút Sự Thật. Thành Phố Hồ Chí Minh, Nhà Xuất Bản Văn Nghệ, 2006, tr. 114 – 115.
11 – Hồ Chí Minh, Tuyên Ngôn Độc Lập Nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa. Hà Nội, Nhà Xuất Bản Sự Thật, 1976, tr.13. Nguyễn Khánh Toàn va Lữ Huy Nguyên, Tổng Tập Văn Học Việt Nam, Tập 36. Hà Nội, 1980. tr. 812 – 823.
12 – nt
13 – Trần Thanh Hiệp và Trương Giang, Một Bản Tuyên Ngôn Phi Nhân Quyền, trên Người Việt, số 7940, ngày Thừ hai, 3 tháng 9 năm 2007.
nguồn: Hoàng Đế Bảo Đại đã dành độc lập choViệt Nam
đọc thêm:
Tin tặc và trẻ thơ
CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
Theo nhà triết học Pháp Jean Francois Revel, Hồ đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. “Mục tiêu của Hồ không phải là Việt Nam độc lập, mà sự hội nhập vào Quốc tế Cộng Sản.
Cách mạng tháng Tám có cần thiết hay không? Nếu không có đảng Cộng sản và Hồ chí Minh không sinh ra, thì liệu chính phủ Trần trọng Kim có đem lại nổi độc lập, thống nhất cho nước Việt nam hay không? Tôi nghĩ rằng được. Sau khi Nhật đầu hàng, chắc Pháp trở lại, song tôi nghĩ Bảo Đại và nhóm Trần trọng Kim có đủ sáng suốt để tạo một Việt nam độc lập trong khối Liên hiệp Pháp, hoặc kiểu Pháp-Việt đề huề như cụ Phan chu Trinh khởi xướng. Rồi từ từ với trình độ dân trí phát triển, thế giới tiến bộ, độc lập, tự do, thống nhất chắc chắn sẽ đến. Quả nhiên, khi chính phủ Pháp yêu cầu vua Bảo Đại về chấp chánh, đã phải ký với vua, bải bỏ các hiệp ước thời bảo hộ và thuộc địa, cả việc trả lại Nam Bộ, mà Pháp đã từ chối trong modus vivendi ký với Hồ chí Minh.
Năm 1953, ở Đà-lạt, tôi tình cờ nói chuyện với một cựu nhân viên trong phái đoàn Pháp. Ông nhắc lại chuyện gặp phái đoàn Phạm văn Đồng tại Đà-lạt năm 1946. Pháp nói là họ trở lại để hợp tác chứ không phải tạo lập lại chính sách thuộc địa. Pháp có khoa học kỷ thuật, Việt nam có tài nguyên và nhân công. Một phát triển chung trong khối Liên hiệp Pháp sẽ có lợi cho đôi bên. Song Đồng với đầu óc thiển cận và sô vin (chauvin) chỉ đòi độc lập, thống nhất hoàn toàn. Đồng lúc ấy trong đầu chỉ biết cách mạng vô sản, chứ đâu phải là một nhà chính trị mềm dẽo và có kiến thức cao. Cha của người bạn tôi, xưa kia có học chung với Đồng ở Hà-nội. Trong một cuộc chơi đá cầu, Đồng thua, trở nên cay cú và đá vào hạ bộ của ông. Ông kết luận một người không có “fair play”(ngay thẳng) như thế không thể là một nhà chính trị tốt. Mitterand, lúc sang Việt nam thăm Điện biên phủ, đã hối tiếc, nếu là ông, sẽ tránh được cuộc chiến tranh. Tạm ước Paris cũng xác định nước Việt nam mới, có chủ quyền đến tận Bình thuận. Pháp giữ Nam bộ trong 5 năm, sau đó sẽ có trưng cầu dân ý. Nếu dân Nam bộ thuận trở về trong lòng dân tộc sẽ có thống nhất. Hồ đã chọn giải pháp chiến tranh, nên khi ở Pháp về sau hội nghị Fontainebleau, đã xé tạm ước, đánh úp quân Pháp đêm 19-12-1946, vì Lénin đã dạy chỉ trong chiến tranh, rối loạn, đảng cộng sản mới diệt được phe quốc gia và vững mạnh lên. Sau 10 năm kháng chiến, năm 1954, Miền Bắc chỉ có chủ quyền đến sông Bến hải chứ không phải Bình thuận. Đúng là điên khùng, xem quốc tế CS là mục đích, còn quốc gia dân tôc là phương tiện.
Paul Bert, toàn quyền Pháp, là một trí thức nhân hậu và là một khoa học gia. Ông muốn thực hiện một chính sách khai hóa ở Việt nam. Chính ông đã có ý mở trường Đại học Hà- nội mà sau này Paul Doumer thực hiện. Ông nói với giới trí thức Việt nam là chế độ thực dân là một tất yếu lịch sử vì giá sử phương Đông tiến bộ hơn phương Tây thì Phương Đông sẽ chiếm cứ phương Tây để khai thác. Hung nô, Mông cổ đã chiếm đóng phương Tây trong quá khứ. Nếu nước Pháp trung thành với tinh thần nhân hậu cuả văn hóa Pháp, thì phải chia xẻ hiểu biết, kỹ thuật, cho Việt nam và đưa Việt nam đến phú cường. Có một bài báo Paris Match, tiếc rằng chế độ thực dân chấm dứt quá sớm. Khoa học gia Bỉ tìm ra một phương pháp làm cây chà là sản xuất dầu 10 lần hơn thường. Song không còn thuộc địa để ứng dụng. Nếu Tây phương còn giữ thuộc địa ở Phi châu, có thể là họ làm Phi châu phồn thịnh hơn hiện giờ, bởi vì các lãnh đạo mới của Phi châu mang tính cách độc tài cố hữu thời bộ lạc, lại tham nhũng. Dĩ nhiên với kinh tế thị trường, các công ty kỷ nghệ mẫu quốc sẽ mở công xưởng, ở xứ thuộc địa, đâu cần phải kêu gào đầu tư ngoại quốc như hiện nay.
Hồ huyênh hoang: “chúng ta quyết giành cho được độc lập, thống nhất dù cho phải sống 30 năm trong khói lửa”, khi đáp lời mời của Johnson mở hoà đàm. Đến nổi báo chí Tây phương phải ta thán: “Đệ nhất, đệ nhị thế giới chiến tranh cũng chỉ kéo dài 5, 6 năm, nhân loại đã vô cùng mệt mỏi. Thế mà già Hồ ung dung đưa dân tộc Việt Nam vào một cuộc chiến tranh trường kỳ 30 năm. Báo chí Mỹ đã chế giễu lời nói sắt máu ấy với câu chuyện hài hước: “Ông Mỹ cha sau khi chiến đấu 10 năm ở Việt nam về, kêu Mỹ con lên đường thế mình trong 10 năm nữa. Nhưng chưa hết. Phải một thế hệ Mỹ cháu lên đường, chiến tranh Việt nam mới chấm dứt”.
Nguyễn Tất Thành (Hồ chí Minh)
Hồ không ham hòa đàm, chỉ ham máu chảy. Máu thịt dân Việt Nam Hồ xem như là của riêng, đem ra phung phí thoả thích để đạt những mục tiêu của Quốc tế vô sản. Riêng Lê Duẩn, kẻ kế thừa cũng nướng 10 triệu thanh niên (theo tiết lộ của bà vợ) trong công cuộc “xẻ dọc Trường sơn đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Theo nhà triết học Pháp Jean Francois Revel, Hồ đã lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. “Mục tiêu của Hồ không phải là Việt Nam độc lập, mà sự hội nhập vào Quốc tế CS. Chủ đích của ông không phải là giành lại cho nhân dân quyền tự quyết, quyền bầu cử, quyền lựa chọn người lãnh đạo, quyền người dân chọn luật pháp và lối sống của mình. Ông chỉ nhắm cưỡng bức nhân dân chấp nhận chế độ toàn trị kiểu Stalin, với tất cả những đặc điểm của nó: giết người không cần luật pháp xét xử, trại tập trung, sự chà đạp nhân phẩm trong Goulag cải tạo, quần chúng chết đói và tham nhũng của lãnh đạo”.
“Hồ chí Minh là một trong những người cứng rắn nhất khi áp dụng phương pháp cai trị kiểu độc tài CS suốt thế kỷ 20. Nội dung phương thức ấy là khơi dậy những khát vọng tự nhiên của con người như là khát vọng tự do, phồn thịnh, tiến bộ, độc lập dân tộc để rồi hướng tất cả những ý nguyện ấy vào những mục tiêu trái ngược với những khát vọng nói trên: ông ta đã lợi dụng quần chúng”
Cách mạng tháng Tám thực không cần thiết. Kháng chiến chống Pháp có thể tránh được. Xem như các nước Phi luật Tân, Thái Lan, Mã Lai v.v được độc lập mà đâu phải đi qua biển máu như Việt Nam. Tứ cường sau đệ nhị thế chiến đã cam kết trong “Hiến chương Đại Tây dương” trả lại tự do độc lập cho các xứ thuộc địa. Anh, Pháp, Hòa Lan, đều giữ lời hứa. Năm 1949, Pháp đã trao chủ quyền độc lập, thống nhất cho Quốc gia Việt Nam, với sự toàn vẹn lãnh thổ từ ải Nam Quan, đên Mũi Cà Mâu cho Quốc trưởng Bảo Đại. Ngày 25-04-1956 người lính Pháp cuối cùng rời Nam Bộ (thời Ngô đình Diệm) chấm dứt chế độ thực dân Pháp sau 72 năm (1884-1956). Nếu không có họ Hồ phá đám, với chính phủ Trần trọng Kim, thì độc lập, thống nhứt nước ta sẽ hoàn thành vào khoảng 1948.
Chúng ta có thể bác bỏ dễ dàng luận điệu của Mao là chính quyền thoát thai từ một thùng thuốc súng. Bạo động là cốt lõi của nguỵ quyền CS. Sao phải áp dụng những lề lối côn đồ, cướp của giết người? Gandhi đã giành độc lập cho Ấn độ bằng bất bạo động. Mandela giành tự do cho người da đen Nam Phi cũng bằng bất bạo động. Cụ Phan chu Trinh cũng dùng bất bạo động để tranh đấu người Pháp trả tự do độc lập cho nước nhà. Hiện nay nhiều thức giả đã tìm thấy chân lý nầy và ca tụng sự sáng suốt đi trước thời đại của cụ. Cụ Phan khi ở Pháp đã khuyên Nguyễn tất Thành là đừng theo thuyết CS, vì thuyết ấy còn mơ hồ, và chưa được thực tế kiểm nghiệm. Thành cho là cụ Phan thủ cựu, lạc hậu. Cụ Phan đã gọi Thành là “tử mã lộc thạch” nghĩa là ngựa non háu đá. Nói chung Đảng CS Việt Nam phần lớn trình độ văn hóa lớp ba ngu dốt, bị mê hoặc bởi một lý thuyết ảo tưởng, sắt máu. Giết hại các đảng phái đối lập, tiêu diệt tôn giáo, cải cách ruộng đất, đày ải trí thức, chôn vùi nhân tài, chủ động hai cuộc chiến tranh vô ích chống Pháp, chống Mỹ, đẩy hàng triệu thanh niên ưu tú vào chỗ chết.
Tóm lại nước ta thật bất hạnh rơi vào tay CS để chịu 30 năm điêu linh, chiến tranh, tàn phá, máu chảy thành sông, đống xuơng vô định. Người dân gánh chịu muôn vàn khổ cực. Tội này của Hồ chí Minh và tập đoàn CS, muôn đời bị nguyền rủa, lịch sử lên án.
(trích Hồi ký “Tình yêu hiện sinh”)
Bác Sĩ Phùng Văn Hạnh
Tại sao Hồ Chí Minh ký hiệp định Genève ?
Kỷ niệm ngày chia đôi đất nước 20/7/54
Ngô Nhân Dụng
Từ năm 1955 cho đến 1975, người Việt ở miền Nam vẫn gọi ngày 20 Tháng Bảy là Ngày Quốc Hận. Ðó là mối hận đất nước bị chia đôi, tái diễn ” tấn bi kịch huynh đệ tương tàn Trịnh Nguyễn phân tranh gần 300 năm trước”. Chế độ cộng sản miền Bắc không coi ngày đó mang một niềm ân hận, ngược lại họ còn cho đó là một thành quả.
Người quốc gia ở miền Nam thì vẫn đa cảm; các lãnh tụ cộng sản sắt đá hơn vì họ tin tưởng ở một chủ nghĩa “siêu việt” và một phong trào vô sản toàn thế giới. Ở miền Nam nhiều học sinh cũng than thở, “Ðây sông Gianh, đây biên cương thống khổ – Ðây sa trường, đây nấm mộ người Nam.” Ông Võ Thành Minh đã tuyệt thực ở bên hồ Leman để chống lại việc cắt đôi đất nước. Tất cả báo chí ở miền “quốc gia” đều loan tin tiếng sáo thở than của Võ Thành Minh, nhưng phía cộng sản thì không nhắc tới ông, sau này ông qua đời trong vụ Tết Mậu Thân ở Huế. Ngoài Bắc, các lãnh tụ cộng sản còn đang lo hô hào cán bộ đẩy mạnh các cuộc đấu tố để tiêu diệt giai cấp địa chủ, thực hiện tư tưởng Mao Trạch Ðông. Hồ Chí Minh ký đạo luật “cải cách ruộng đất” vào Tháng Mười Hai năm 1953, một “bước tiến” trong cuộc cách mạng quốc tế mà ông theo đuổi. Khi một người tin mình nắm chân lý tuyệt đối trong tay thì họ dám làm bất cứ cái gì để thực hiện chân lý đó, một cuộc nội chiến giết hàng triệu người chỉ là một chi tiết nhỏ trong vở tuồng lịch sử vĩ đại mà họ coi là tất yếu.
Nửa thế kỷ nhìn lại, bây giờ nhiều người Việt Nam sống ở miền Bắc cũng công nhận việc chia đôi đất nước năm 1954 là một mối đau nhục, gây nên cảnh nồi da xáo thịt vô ích.
Ngày mai là đúng 51 năm kể từ khi ký Hiệp Ðịnh Genève, 20 Tháng Bảy năm 1954. Từ nửa thế kỷ nay nhiều sử gia vẫn đặt câu hỏi: Sau khi Việt Minh chiếm được căn cứ Ðiện Biên Phủ của Pháp, tại sao Hồ Chí Minh không thừa thắng xông lên, tiếp tục tấn công để chiếm lấy tất cả nước Việt Nam mà lại chịu ký hiệp định chia đôi đất nước? Mỗi sử gia có thể nhấn mạnh vào một lý do nào đó, không biết chắc ai đúng ai sai. Nhiều người cho là Cộng Sản Việt Nam đã chịu áp lực của Liên Xô và Trung Cộng. Các đàn anh cộng sản này muốn kết thúc cuộc chiến ở Ðông Dương, sau khi họ đã ký kết chấm dứt chiến tranh ở Hàn Quốc. Nghĩ như vậy tức là coi như Cộng Sản Việt Nam bị ép buộc nên phải cắt đôi đất nước. Ðể làm áp lực, hai nước cộng sản đàn anh hứa tiếp tục viện trợ với điều kiện Cộng Sản Việt Nam chịu đến bàn hội nghị ở Genève.
Có sử gia lại nói chính Cộng Sản Việt Nam muốn ký hiệp ước vì sợ đằng sau nước Pháp còn có Mỹ, phải ngưng chiến để không cho Mỹ có lý do can thiệp vào Việt Nam. Ông William J. Duiker, trong cuốn “The Communist Road to Power in Vietnam” kể rằng Hồ Chí Minh đã mất công thuyết phục cánh chủ chiến trong đảng Cộng Sản, trong phiên họp Trung Ương Ðảng vào Tháng Bảy năm 1954. Ông Hồ nói rằng những người trong Trung Ương Ðảng muốn tiếp tục chiến tranh không nhìn thấy mối nguy là quân Mỹ có thể sẽ nhảy vào Việt Nam giúp chính phủ quốc gia của Bảo Ðại, thay chỗ của Pháp.
Trong thời gian chiến cuộc Ðiện Biên Phủ, chính phủ Pháp đã yêu cầu Mỹ hỗ trợ bằng cách ném bom chung quanh thung lũng này để tiêu diệt quân Việt Nam đang tấn công. Không khí “chiến tranh lạnh” bao trùm thế giới từ sau Ðại Chiến Thứ Hai, cả Nga lẫn Mỹ đang nghi ngờ nhau. Bộ Quốc Phòng Mỹ vẫn giả thiết rằng sớm muộn Nga xô sẽ đánh Âu Châu và Trung Cộng sẽ tấn công chiếm các nước Ðông Nam Á. Mà các nước trong vùng đó đều có một (hay hai) đảng Cộng Sản địa phương đang nổi dậy, làm nội ứng. Lúc đó Mỹ đã rảnh tay ở Cao Ly mà lực lượng máy bay bom đạn của họ vẫn sẵn sàng ở Nhật Bản và Ðài Loan. Nhưng chính phủ Mỹ đã từ chối không giúp Pháp ở Ðiện Biên Phủ. Nếu sau đó chính phủ Pháp chấp thuận những điều kiện của Mỹ, thí dụ, trả lại nhiều quyền tự quyết về quân sự và ngoại giao cho chính phủ quốc gia Việt Nam hơn, sau khi Bảo Ðại đã phong nhậm một ông thủ tướng thân Mỹ, thì việc tham dự của Mỹ có thể thành sự thật. Ðó là mối lo chính đáng của Hồ Chí Minh, con người có kinh nghiệm quốc tế nhiều hơn các lãnh tụ cộng sản khác.
Ông Duiker cũng cho là vì lo ngại Mỹ sẽ nhúng tay trực tiếp nên Hồ Chí Minh đã lựa chọn giải pháp chia đôi Việt Nam, thay vì giải pháp ngưng bắn tại chỗ, mỗi bên giữ phần đất mình đang kiểm soát. Trong trường hợp ngưng bắn tại chỗ, Mỹ vẫn có thể chờ một biến cố nào đó để lấy cớ mà viện trợ trực tiếp cho chính phủ Ngô Ðình Diệm đánh nhau với Việt Minh trở lại. Khi chính phủ Mỹ không ký vào Hiệp Ðịnh Genève chia đôi Việt Nam, chúng ta có thể hiểu là họ nghiêng về giải pháp ngưng bắn tại chỗ, vì nó thích hợp với mưu đồ của họ hơn, đúng như ông Hồ lo ngại. Mặt khác, nếu chia đất theo lối “da beo” thì ông Hồ khó thi hành được chương trình đấu tố trong cải cách ruộng đất mà ông đã bắt đầu, dưới sự cố vấn của các đồng chí Trung Quốc.
Nhưng một câu hỏi thực tế là, lúc đó Việt Minh có đủ sứ tiến đánh tới toàn thắng, nếu Mỹ không can thiệp hay chăng? Tướng Navarre, người chỉ huy quân Pháp thời đó, cho biết rằng trong năm 1954 lực lượng Việt Minh đã cạn sức vì dồn hết sức vào chiến dịch Ðiện Biên Phủ. Ðể chiếm lấy một cứ điểm có 16,000 quân Pháp, Việt Minh đã huy động gần 50,000 quân chủ lực, 55,000 quân phụ lực, và 100,000 dân công tiếp tế cho chiến trường. Phía Pháp chết khoảng 1,500 quân, 4,000 bị thương; trong khi phía Việt Nam mất 25,000 người trong đó 10,000 người chết. Nhiều người phía Việt Minh thì cho là sau khi thắng trận ở Ðiện Biên Phủ, họ đủ sức sẵn sàng mở ra những cuộc hành quân ở vùng châu thổ sông Hồng Hà để tiêu diệt lực lượng Pháp và quân đội quốc gia. Tất nhiên họ không dự trù việc tham dự của Mỹ có thể xảy ra, và cũng không biết các điều kiện viện trợ của Liên Xô và Trung Cộng mà công nhân biết. Tướng Navarre thì nói sau trận Ðiện Biên Phủ các hoạt động tấn công của Việt Minh đã giảm hẳn đi, nhưng khi ông ta xin thêm 2 sư đoàn viện binh thì chính phủ Pháp từ chối. Mặt khác, thủ tướng Pháp lúc đó, ông Mendes France, đã hứa trước quốc hội khi nhậm chức là sẽ giải quyết chiến tranh Ðông Dương trước ngày 21 Tháng Bảy, cho nên có ký hiệp định đình chiến thì ngôi thủ tướng của ông mới tồn tại.
Bên cạnh các giả thuyết của các sử gia, có một tài liệu có thể coi là khách quan đối với tình hình quân sự tại Việt Nam lúc đó, trong cuốn Hồi Ký Khrushchev (Khrushchev Remembers), của người lãnh đạo Liên Bang Xô Viết năm 1954, bản dịch cuốn sách này xuất bản năm 1971 ở Mỹ. Gọi là khách quan, vì ông Nikita Khrushchev rất có cảm tình với ông Hồ Chí Minh. Hơn nữa, lúc đó ông nắm đủ các tin tức mà người ngoài không biết, do guồng máy các cố vấn Nga Xô bên cạnh Việt Minh cũng như ở Trung Quốc cung cấp.
Khrushchev kể rằng đầu năm 1954 Chu Ân Lai, Hồ Chí Minh đến Mát Cơ Va họp để bàn một lập trường chung tại Hội Nghị Genève, “dựa trên tình hình ở Việt Nam.” Và Khrushchev mô tả, “Tình hình rất nghiêm trọng. Phong trào kháng chiến ở Việt Nam đang trên đà sụp đổ. Các dân quân hy vọng Hội Nghị Genève sẽ dẫn tới một thỏa hiệp ngưng bắn để họ có thể tiếp tục cuộc chiến đấu chống Pháp…” Ðó là nhận xét của Khrushchev. Ông còn thuật lại lời Chu Ân Lai. Sau một phiên họp chung, có lúc Chu Ân Lai kéo Khrushchev vào một góc, nói, “Ðồng chí Hồ Chí Minh đã nói với tôi rằng tình hình ở Việt Nam đang tuyệt vọng, và nếu chúng ta không tiến đến một cuộc ngừng bắn sớm, thì người Việt Nam không thể đứng vững chống lại quân Pháp. Do đó, họ đã quyết định nếu cần sẽ rút lui về biên giới Trung Quốc, và họ xin Trung Quốc sẵn sàng tiến quân sang Việt Nam, như chúng tôi đã làm ở Triều Tiên. Nói cách khác, người Việt Nam muốn chúng tôi đánh đuổi Pháp giúp họ. Chúng tôi không thể nào đáp ứng yêu cầu của đồng chí Hồ Chí Minh. Chúng tôi đã tổn thất quá nhiều ở Triều Tiên, cuộc chiến đó tốn kém quá đối với chúng tôi. Chúng tôi không thể nào dự vào một cuộc chiến tranh khác trong lúc này.”
Nghe Chu Ân Lai xong, Khrushchev đã tìm cách thuyết phục ông ta đừng từ chối ngay, “Ðồng chí không thể nào nói với ông Hồ là đồng chí sẽ không giúp đỡ khi ông ta bị Pháp đánh phải rút quân về biên giới Trung Quốc. Tại sao đồng chí không cứ nói dối một cách vô hại đi? Cứ để cho người Việt Nam họ tin là đồng chí sẽ giúp họ nếu cần, cái đó sẽ khích lệ họ chiến đấu chống quân Pháp hăng hái hơn.” Chu Ân Lai đã nghe lời khuyên đó, Khrushchev kể, ông ta “không nói với ông Hồ là Trung Quốc sẽ không đánh nhau với Pháp trên lãnh thổ Việt Nam.”
Chúng ta có thể tin những lời Khrushchev thuật lại là đúng, vì ông ta tỏ ra rất hâm mộ Hồ Chí Minh. Lần đầu Khrushchev gặp ông Hồ là vào Tháng Hai năm 1950, khi ông Hồ sang Mát Cơ Va xin Stalin viện trợ. Khrushchev mô tả Hồ Chí Minh là một con người “thành thật, nhân từ, trong sáng;” và nói rằng “Ông ta có thể chinh phục tất cả mọi người với tấm lòng chân thành và niềm tin tưởng không thể nào lay chuyển của ông rằng chủ nghĩa Cộng Sản là tốt nhất cho dân tộc ông và cho cả loài người.” Khrushchev tả Hồ Chí Minh có đôi mắt “chân thành trông thơ ngây như trẻ em.” Khrushchev ca ngợi, coi Hồ Chí Minh đáng là một vị “thánh cộng sản.” Nhưng cáo già Stalin thì không. Trong cuộc gặp gỡ đầu năm 1950 này, Hồ Chí Minh đã rút ra một tờ báo hình ảnh của Liên Xô, có hình Stalin, xin ông ta ký tên vào đó làm kỷ niệm. Stalin vui vẻ ký, nhưng sau đó đã ra lệnh mật vụ tới phòng Hồ Chí Minh lén thu hồi lại, vì Stalin cũng sợ ông Hồ sẽ lợi dụng, theo lời Khrushchev thuật. Mọi người đều biết hồi ông Hồ ở bên Trung Quốc và làm việc cho OSS, tổ chức tình báo Mỹ, ông có xin Tướng Chennault, chỉ huy phi đoàn Cọp Bay của Mỹ ở Trung Quốc, ký tặng Hồ một bức hình. Sau đó ông Hồ mang bức hình về Việt Nam, rồi khi họp hội nghị Tân Trào thì đem bức hình đó trưng bày, để mọi người nghĩ rằng ông đã được Mỹ ủng hộ, mà Mỹ thì đang thắng Nhật. Chưa chắc Stalin biết câu chuyện này, nhưng một lãnh tụ cộng sản như ông ta thì chắc cũng hiểu là không nên tin tưởng những lãnh tụ cộng sản khác.
Câu chuyện Khrushchev kể trong cuốn hồi ký về cuộc đối thoại với Chu Ân Lai có thể hoàn toàn là thật. Vì ông ta không có lý do nào để nói dối. Chu Ân Lai chắc cũng không cần bịa chuyện ra nói với Khrushchev. Năm 1954 là lúc bang giao giữa hai nước Nga-Hoa còn rất thân thiện, mà nếu Chu Ân Lai nói dối thì Khrushchev có thể kiểm tra lại, biết liền. Cho nên chúng ta có thể tin rằng Hồ Chí Minh quả thật đã thú nhận với cả hai lãnh tụ Nga và Trung Quốc tình hình lực lượng Việt Minh đang lo bị thua tới mức có thể phải rút sang Trung Quốc. Cũng có thể tin được là năm 1954, Hồ Chí Minh đã xin Trung Cộng đem quân vào Việt Nam.
Khi Chu Ân Lai nói với Khrushchev rằng Trung Cộng không thể tham dự một cuộc chiến nữa, sau khi đã tiêu hao lực lượng ở Cao Ly, điều này cũng đúng. Nhiều người vẫn nghĩ là chính Stalin thúc đẩy Trung Cộng đem quân sang Cao Ly để làm tiêu mòn lực lượng nước cộng sản anh em này, vì ai cũng biết chính Stalin bật đèn xanh cho Kim Nhật Thành gây chiến. Nhưng sau khi ký hiệp ước đình chiến ở Cao Ly, Trung Cộng đã thấy sự thiệt hại của họ quá lớn, cho nên không muốn dính vào một cuộc chiến khác. Theo William Duiker thì vào Mùa Thu năm 1953, Ngoại Trưởng Mỹ Foster Dulles đã cảnh cáo nếu Trung Cộng dính vào Chiến Tranh Ðông Dương thì sẽ “có hậu quả nghiêm trọng” khiến Bắc Kinh chấp nhận chính sách tỏ dấu hiệu ôn hòa của Nga Xô trong cuộc ganh đua với Mỹ, sau khi ông Stalin qua đời.
Như vậy thì việc ký Hiệp Ðịnh Genève một phần là do Hồ Chí Minh lo sợ nếu tiếp tục chiến tranh thì Mỹ sẽ can thiệp, mà sức lực Việt Minh lúc đó đang yếu; một phần khác cũng vì chủ trương ôn hòa của Nga Xô khiến cho ông Hồ lo ngại nếu không theo thì sẽ không còn được Nga và Trung Quốc viện trợ như trước nữa. Bản hiệp định chia đôi đất nước đó dẫn tới cuộc chiến tranh Nam Bắc làm chết mấy triệu người Việt Nam, cũng vì ông Hồ là một người cộng sản kiên cường, đúng như ông Khrushchev ca ngợi. Ông “thánh cộng sản” đó muốn cả hai miền Nam Bắc đều phải sống dưới chế độ cộng sản để tiến hành việc “giải phóng” cả vùng Ðông Nam Á và cả thế giới. Chính phủ Ngô Ðình Diệm lúc đó không chịu ký vào Hiệp Ðịnh Genève, cũng vì không muốn chịu trách nhiệm trước lịch sử việc tái diễn Hận Sông Gianh.
Ngô Nhân Dụng
TÀI LIỆU QUAN TRỌNG
–Việt Nam Cộng Hòa – Sau 30 Năm Con Cháu tại Hải Ngoại
–Cộng Sản Vietnam – Sau 30 năm Con Cháu tại Vietnam
–Cộng Sản Việt Nam – Thanh Trừng Nội Bộ
–Đảng CSVN – Bí mật bán Nước cho Trung Cộng
–Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng – Đồng Hóa
–Sách lược : Diệt chủng dân tộc Việt của Trung Cộng
–Tài Liệu : Hủy hoại trí tuệ và Đất Nước
–Trung Quốc : Nắm 137 “lô đất nhạy cảm” tại Đà Nẵng
–Trung Quốc : “Vai Chính” xây dựng Formosa Thải Độc tại Hà Tĩnh
–Tòa Trọng Tài LHQ : Bác bỏ “đường lưỡi bò” Trung Quốc
–Nguyên nhân – Thất thủ Điện Biên Phủ
–Tháng Tư Đen – Bí Mật
–Danh sách : Trên 300 Cộng Sản VN có vài trăm triệu USD
–Hàng chục tỷ USD – Tẩu thoát “Ngầm” ra khỏi Việt Nam
–Chỉ thị 45 – CSVN kêu gọi Người Việt hải ngoại xóa bỏ Hận Thù
Pingback: Hai bản tuyên ngôn độc lập cho Việt Nam | My Blog