Việt Nam Cộng Sản – Sau 30 năm Thống Trị Vietnam

Danh sách Con Ông Cháu Cha “khủng” tại Việt Nam

Image result for nguyễn tấn dũng
***

CON CỦA vici THỦ TƯỚNG NGUYỄN TẤN DŨNG

Chúng tôi bắt đầu với người có nhiều quyền lực, gian xảo và tham nhũng nhất nước hiện nay là vici thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng.

Lý lịch của Nguyễn Tấn Dũng thật mù mờ. Trên trang mạng của Nguyễn Tấn Dũng ghi là sinh năm 1949 tại Cà Mau, nhưng ngôi nhà tự nguy nga của Dũng thì ở Rạch Giá. Ông Hoàng Dũng, một cán bộ Văn phòng Trung ương đảng đã làm việc với nhiều ủy viên cao cấp trong đảng, đã tiết lộ nhiều bí mật về đời tư của nhiều người lãnh đạo.

Về Nguyễn Tấn Dũng, ông viết : «Theo cụ Nguyễn văn Linh, Tổng Bí Thư, thì trong thời gian Nguyễn Chí Thanh làm Bí thư Liên khu ủy Khu IV từ năm 1948 đến 1950 đã có quan hệ với một cán bộ phong trào ở đây và sinh ra Nguyễn Tấn Dũng và cụ còn cho biết là Nguyễn Tấn Dũng còn có một người em trai nữa cũng là con của tướng Thanh.

Cũng trong tài liệu nầy, ông Hoàng Dũng tiết lộ là có gặp nhiều lần Nguyễn Tiến Thắng (Tư Thắng) là em của Nguyễn Tấn Dũng (Ba Dũng). Ông viết về Tư Thắng như sau : Điều tôi quan tâm nhất là anh ta có quan hệ với nhiều người Đài Loan, đặc biệt trong mạng lưới các chân rết của Tư Thắng có một ngân hàng Đài Loan hoạt động chui tại VN là First China Bank. Như vậy, có thể hiểu được đây chính là «sân sau» của Ba Dũng và để tránh đụng chạm với các thế lực khác cạnh tranh, anh em ông Ba Dũng đã nhắm vào địa bàn hoạt động chủ yếu ở miền Trung và Nam Bộ, sau đó việc rửa tiền và chuyển ngân lậu được thực hiện qua ngã Đài Loan…

Tiến sĩ Nguyễn Văn Huy (Paris), căn cứ vào sự nâng đỡ tận tình của tướng Lê Đức Anh (chủ tịch nước 1992-1997, nay đã hơn 90 tuổi nhưng vẫn còn uy thế trong Trung ương đảng) lại đưa giả thuyết không những Nguyễn Tấn Dũng mà cả Nguyễn Minh Triết đều là con rơi của Lê Đức Anh (cần phân biệt với tướng Lê Hồng Anh, là đàn em được Dũng cất nhắc cho làm Bí Thư Tỉnh Rạch Giá, rồi phong quân hàm đại tướng, Bộ trưởng bộ Công An cho đến tháng 8/2011)

Dù là con của ai, căn cứ vào lý lịch và đường hoạn lộ thênh thang của Dũng, chắc chẳn Dũng là con rơi của một cán bộ cao cấp cộng sản. Lúc 12 tuổi, Dũng đã bỏ học (vừa học xong bậc tiểu học) đi làm du kích, y tá cứu thương ở vùng Cà Mau rồi chính ủy tiểu đoàn, trung đoàn ở vùng Cà Mau, tiến lên đến Tỉnh ủy Kiên Giang. Trong thời gian nầy (1980-1985), Dũng đã có công bắt nhóm Trần Văn Bá (bị xử tử), Mai Văn Hạnh được tha trở về Pháp vì là bạn học cũ của thủ tướng Pháp thời đó. Ngoài ra, Dũng còn tổ chức những cuộc vượt biên bán chính thức ở Rạch Giá và Hà Tiên để làm giàu cho đảng và cho cá nhân.

Nhờ Võ Văn Kiệt và Lê Đức Anh cất nhắc, Dũng được đưa về trung ương làm Thứ trưởng Công An (1995-1996), Thống đốc Ngân hàng, Phó Thủ Tướng rồi Thủ Tướng (thay thế Phan Văn Khải) từ tháng 11-2006 và được tái cử trong kỳ đại hội đảng lần thứ XI (2010). Thử tưởng tượng một người vừa học hết tiểu học (sau nầy có học trường đảng cho có lệ, nhưng trong lý lịch ghi là Cử Nhân Luật), mà được đưa lên làm thống đốc ngân hàng trong thời kỳ kinh tế Á châu bị khủng hoảng, và thủ tướng của một quốc gia có nhiều liên hệ với các cường quốc, thì phải hiểu là việc lãnh đạo quốc gia đối với cộng sản là việc riêng của đảng.

Ngoài ra, Nguyễn Tấn Dũng lại là người có nhiều mưu trí và thế lực trong Trung ương đảng, là đảng viên cao cấp duy nhất sớm gởi con du học ở Mỹ và làm sui gia với Việt kiều, điều cấm kỵ tối hậu của đảng. Báo chí thuật lại trong lần họp hội nghị APEC năm 2006, Tổng Thống George Bush chúc mừng xỏ xiên Dũng có con du học ở Mỹ và lấy Việt kiều, Dũng bối rối phải chống chế là con trai đi học bằng học bổng (có lẽ để biện hộ với lương của thủ tướng độ 1000 mỹ kim thì làm sao có thể cho con du học) và lờ đi chuyện con gái lấy Việt Kiều.

Đứa con mà Bush nhắc đến là Nguyễn Thanh Nghị, tốt nghiệp Tiến sĩ Kỹ sư công chánh (Structural Engineering) ở đại học George Washington University, và khi về VN giảng dạy tại đại học Kiến Trúc thành phố HCM, rồi Phó Hiệu Trưởng (Phó Khoa Trưởng) trường nầy. Trong đại hội đảng lần thứ XI, Dũng đã dọn đường lãnh đạo cho con bằng cách đưa Nguyễn Thanh Nghị vào làm ủy viên dự khuyết trong Trung ương đảng và ngày 11-11-2011, Dũng đã bổ nhiệm con trai mình làm Thứ Trưởng Bộ Xây Dựng mặc dù bộ nầy đã có 5 thứ trưởng (Dũng đã hèn nhát không ký tên trên nghị định bổ nhiệm mà sai phó thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc ký thay). Tại VN hiện nay, hai mỏ vàng để hốt bạc và tham nhũng là ngành xây dựng (đất đai và địa ốc) và hải quan. Về mặt kinh tế, từ nhiều năm nay, Nghị có liên hệ mật thiết với Công ty Betexco là đại công ty xây cất các tòa nhà chọc trời ở Saigon và HàNội. Tầm hoạt động của Betexco còn bao trùm cả kỹ nghệ may dệt, vô chai và thủy điện. Như vậy, Nguyễn Thanh Nghị là cột trụ chính trị và kinh tế cho gia đình Dũng và cho đảng Cộng Sản.

zzzzzzz..z.z

Đứa con lấy Việt kiều tên là Nguyễn Thanh Phượng, du học ở Thụy Sĩ, đậu MBA ở International University in Geneva là đại học có liên kết với Michigan State University (cô chỉ đến Mỹ năm 2004 trong 2 tuần để nhận bằng từ đại học nầy chớ không có du học tại Mỹ).

Tháng 1 năm 2006, lúc mới 26 tuổi, Phượng đã làm Giám đốc đầu tư của công ty Vietnam Holding Asset Management, quản trị trên 100 triệu MK của các nhà đầu tư Thụy Sĩ tại VN. Đến tháng 11 cùng năm, Phượng làm Chủ tịch Quỹ đầu tư chứng khoán Việt (Viet Capital Fund Management Joint Stock Company, viết tắt là VCFM) gồm hàng ngàn tỷ bạc (VN) của các nhà đầu tư và công ty người Việt.

Công điện Wikileaks tiết lộ là trong báo cáo của Tổng Lãnh sự Hoa kỳ tại Saigon là Seth Winneck gởi về Bộ Ngoại giao ngày 26/12/2006 đã viết : « Tại sao người ta có thể tin tưởng để giao một số vốn khổng lồ như thế cho một người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm như Phượng. Và câu trả lời hiển nhiên là về mặt chính trị, giao quỹ đầu tư cho cô con gái cưng của thủ tướng quản trị là một điều khôn ngoan bởi lẽ quỹ nầy tập trung những ngành mà chánh phủ kiểm soát như dầu khí, ngân hàng và truyền thông »

Năm 2011, Phượng 31 tuổi là một tỷ phủ, Chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Công ty Chứng khoán Bản Việt sở hữu 6,5 triệu cổ phần chiếm 43,2% vốn của công ty, Chủ tịch HĐQT Công ty bất động sản Bản Việt và vài ngày trước khi người anh được cử là thứ trưởng, Phượng được đề cử vào HĐQT Ngân hàng Bản Việt ( trước có tên là Gia Dinh Bank) với số vốn là 3000 tỷ VN. Với các thành tích trẽn, Phượng là nhà doanh thương trẻ tuổi kỳ tài nhất của thế giới !
Người chồng của cô Phượng là Nguyễn Bảo Hoàng (Henry Nguyen) con của Việt kiều «tội đồ» Nguyễn Bang (Nguyễn Tấn Dũng đã gọi Việt Kiều Nguyễn Cao Kỳ là tên tội đồ). Henry Nguyễn là Tổng Giám Đốc Điều Hành công ty IDG Ventures với số vốn là 100 triệu MK (sau tăng lên 200 triệu) phần lớn do người anh rể là Thomas Connor, một tài phiệt Mỹ đã làm ăn với Bộ Viễn Thông Bưu Chính Việt Nam, kiểm soát hầu hết hệ thống thuê bán Internet và truyền thông tại VN. Thomas Connor đã một lần khai phá sản, nhưng số đầu tư vẫn gia tăng, do đó câu hỏi đặt ra phải chăng các công ty do vợ chồng Phượng-Hoàng quản trị là cửa ngõ hợp pháp cho cha vợ và đồng bọn rửa tiền, tẩu tán tài sản tham nhũng ra ngoại quốc.
 .

Đứa con thứ ba của Dũng là Nguyễn Minh Triết, học kỹ sư hàng không ở đại học Queen Mary tại Anh Quốc, và đã có giữ chỗ ở Bộ Quốc Phòng khi về nước. Gia đình Nguyễn Tấn Dũng là điển hình của chế độ con vua thì lại làm vua tại VN hôm nay.

CON CỦA NGUYÊN TỔNG BÍ THƯ NÔNG ĐỨC MẠNH
.
Image result for vợ nguyễn tấn dũng là ai
.
Trong kỳ hợp đảng lần thứ XI còn có một 4C thứ hai cũng được bầu là Ủy viên dự khuyết Trung ương đảng, tạo nên nhiều tai tiếng là Nông Đức Tuấn, con trai của Tổng Bí Thư Nông Đức Mạnh (2001-2010). Cá nhân Nông Đức Mạnh cũng đã là một 4C, con rơi của Hồ Chí Minh với Nông thị Ngát, bí danh là Nông Thị Trưng. Được báo chí hỏi có phải Mạnh là con tư sinh của Hồ Chí Minh hay không, Mạnh đã trả lời lửng lơ «Ở đất nước nầy ai chẳng là con cháu của Bác».
Nông Đức Tuấn sinh năm 1963, người dân tộc Tày, đã đi lao động xuất khẩu tại Đông Đức từ lúc 18 tuổi, lúc ấy Nông Đức Mạnh đã làm Tỉnh ủy tỉnh Bắc Thái. Sở dĩ cha làm quan mà đưa con đi lao động xuất khẩu vì cha muốn đưa con ra ngoài nước để cai nghiện khỏi xấu hổ. Từ khi trở về nước cuối năm 1988 cho đến năm 2008, Tuấn lêu bêu với mấy chức vụ trong Đoàn Thanh niên và Ủy Ban Sắc tộc. Để dọn đường cho con trai làm lãnh tụ, Nông Đức Mạnh «dàn xếp » với Thủ Tướng Dũng cử Nông Đức Tuấn làm Phó tỉnh ủy tỉnh Bắc Giang vào tháng 4 năm 2009. Vận may đến với Tuấn là khi người thanh niên tên Nguyễn Văn Khương bị công an tỉnh Bắc Giang đánh chết và dân chúng xuống đường đòi nợ máu với chánh quyền, Tỉnh ủy Bắc Giang tên Đào Xuân Cẩn bị ép buộc từ chức để nhường ghế Tỉnh ủy cho Tuấn. Khi Đại hội Đảng họp lần thứ XI, tuy Mạnh bị mất chức Tổng Bí Thư nhưng lại gài được cho con vào ghế Ủy viên Trung ương, mở đường cho chế độ cha truyền con nối dòng họ Nông.
.

CON CỦA CỐ TỔNG BÍ THƯ LÊ DUẨN

Lê Duẩn là người Tổng bí thư cầm quyền lâu nhứt của chế độ Cộng Sản VN. Từ 1960 đến 1976, Lê Duẩn là Bí Thư thứ nhứt của đảng và từ sau 1976, chức vụ được đổi là Tổng bí thư, chức vụ mà Duẩn nắm giữ cho đến khi Duẩn mất năm 1986. Trong lý lịch các nhân vật cao cấp cộng sản, Duẩn cũng như Hồ Chí Minh và nhiều đồng chí được xếp vào hạng vừa dốt, vừa độc tài và đa thê. Vì nhiểu vợ, Duẩn có nhiều con, trong số có nhiều người giữ các chức vụ quan trọng trong chánh phủ và cơ sở kinh tế đầu não.

Theo Hứa Hoành, thuở sinh thời, Lê Duẩn có ba vợ, bà vợ chính tên Cao thị Khê ở Quảng Trị cưới khi Duẩn 20 tuổi, có em là Cao Xuân Diệm, sau nầy trở nên Trung tướng công an bí danh Dương Thông phụ trách đàn áp văn nghệ sĩ. Bà thứ hai là Đỗ Thị Sảnh. Năm 1942, khi hoạt động trong Nam, Lê Duẩn dùng thủ đoạn cưới thêm bà Thụy Nga, cháu gọi ông Đỗ Hữu Vị (đại úy phi công VN đầu tiên trong quân đội Pháp).

Ngoài ba bà vợ, Lê Duẩn còn lăng nhăng với nhiều người khác, trong đó có bác sĩ Hồ Thị Nghĩa, con của Hồ Viết Thắng, Phó chủ tịch Ủy ban kế hoạch nhà nước trong thập niên 80. Theo nhà văn Xuân Vũ, bà Thụy Nga đã có người yêu nhưng bị Lê Đức Thọ dàn xếp lừa bà vào một căn lều vắng để Lê Duẩn đến cưỡng hiếp khiến bà phải chịu làm vợ ba. (Hoàng Dung, tr.83, 84)
.

Trừ Lê Hãn, Giám Đốc Tiếp Liệu cho các trường quân sự nay đã về hưu, các người con khác của Lê Duẩn đảm nhiệm các chức vụ béo bở như sau :
Lê Kiến Trung : Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Hải quan Thành phố HCM, hiện nay là Phó Tổng Cục An Ninh, Bộ Công An.

Lê Kiến Thành : là tỷ phú, chủ tịch Hội Đồng Quản Trị Techcombank (1994-2004), chủ tịch Công ty xây dựng và phát triển đô thị và hiện nay là Tổng Giám Đốc Công ty chế biến thực phẩm Thái Minh. Ngoài ra, Thành còn là Phó Chủ Tich thường trực Hội Golf Việt Nam, một loại kinh doanh mang lại nhiều lợi nhuận do các 4C độc quyền nắm giữ.

Báo chí trong nước hồi tháng 10/2011 xôn xao vì Lê Kiến Trung đã công kích và nói xách mé Bộ Trưởng Bộ Giao Thông Vận Tải là Đinh La Thông khi ông nầy cấm nhân viên của Bộ Giao Thông chơi golf. Bức thư của Lê Kiến Thành có đoạn như sau :«Vấn đề giao thông thấp kém lạc hậu, đầu tư vào giao thông như muối bỏ bể, một con đường quy hoạch cho 30000 dân, giờ phải tải cả triệu người, điều nầy đã tồn tại ngót 30 năm nay. Hẳn ông Bộ Trưởng cũng biết golf mới du nhập vào VN chừng 10-15 năm nay, vậy trước khi có golf điều gì đã ảnh hưởng tới chất lượng lãnh đạo của cán bộ giao thông vận tải. Chơi golf không có tội, lãnh đạo trước hết phải thượng tôn pháp luật»

Việc tranh chấp giữa ông con của cựu bí thư bố già và ông bộ trưởng khoác lác là điễn hình của chế độ luật rừng và thế lực của 4C tại VN hôm nay.
Lê Thị Muội : Hoàng hữu Quýnh trong tác phẩm «Tôi bỏ đảng» đã viết về cô gái nầy như sau : Trong số du học sinh VN tại Liên Sô có 3 đứa con của Lê Duẩn, học dốt nhưng lại đài các nhất. Đó là Lê Hản học tại đại học quân sự không quân, Lê thị Hồng và Lê Thị Nga.
Lê thị Hồng có tên thật là Lê Thị Muội. Là con đẻ của anh Ba, nhưng Lê thị Hồng không đồng quan điểm với ba mình. Triết lý sống của Lê thị Hồng là sống phải cho ra sống. Phải được thoải mái về mặt tinh thần. Về vật chất phải có miếng ăn ngon, phải mặc đẹp và phải biết tận hưởng mọi hạnh phúc khi tình yêu đến. Hồng đi nghỉ hè và «hành nghề» tại hải cảng Sochi trên bờ biển Hắc Hải. Không chỉ Hồng làm cái «nghề đó», các nữ sinh Liên Sô cũng vậy (Tôi bỏ đảng, tr.105). Khi về nước, Lê Thị Muội được cử làm Phó Bộ Trưởng bộ Nội Thương.
Lê Vũ Anh tên thật là Lê Thị Nga: du học ở Nga, cãi lời cha ở lại lấy ông thầy người Nga tên Marlov, sau đó chết vì tai nạn xe cộ. Người ta đồn cái chết nầy do Lê Duẩn ra lịnh giết để giữ uy tín cho ông, (Hoàng Dung, tr. 131) không muốn cho con kết hôn với người ngoại quốc, điều cấm kỵ của đảng, ngay cho người ngoại quốc đó là người Nga. Điều nầy cho thấy việc Nguyễn Tấn Dũng làm sui gia với Việt kiều là một dấu hỏi lớn, phải chăng đảng đã cho phép để tẩu tán tài sản tham nhũng của đồng bọn.
.

Con của Lê Đức Thọ
.


.

Lê Đức Thọ tên thật là Phan Đình Khải là anh của Phan Đình Đồng (bí danh là Mai Chí Thọ) và Phan Đình Dinh (bí danh là Đinh Đức Thiện). Cả 3 anh em đều không coi trọng dòng họ của tổ tiên, giữ bí danh cho đến khi chết, thậm chí con của Lê Đức Thọ vẫn mang họ Lê là Lê Nam Thắng hiện là Thứ Trưởng thường trực Bộ Thông Tin và Truyền Thông (nghĩa là thứ trưởng số 1, ưu tiên thay Bộ Trưởng).

Mai Chí Thọ là Đại Tướng, trùm Công An miền Nam sau 1975, còn Đinh Đức Thiện được phong là Thượng Tướng, giữ nhiều chức vụ cao cấp mà chức vụ sau cùng là Thứ Trưởng Bộ Quốc Phòng. Như vậy cha con chú cháu đều nắm giữ các chức vụ then chốt trong đảng và chính phủ.


.

Lê Đức Thọ và Lê Duẩn có nhiều điểm giống nhau : độc tài, gian xảo, cầm quyền sinh sát trong đảng lâu năm (từ 1948 đến 1986), có vào Nam công tác (Xứ Ủy Nam Bộ 1948-54, chính ủy cuộc đại tấn công miền Nam 1975) và đặc biệt là dâm đảng.
Ông Bùi Tín nói rõ là 2 bà vợ của Lê Đức Thọ ở chung một nhà trên đường Nguyễn Cảnh Chân, Hànội, xưa là biệt thự của viên Hiệu trưởng trường Albert Sarraut, cùng ăn chung một bàn với ông chồng và con cái theo tinh thần Nam-Bắc đề huề. Đúng là một nhà tổ chức đại tài. (Mặt Thật, tr.177).
Trong Lớn lên với đất nước, tác giả Vy Thanh, một cựu đảng viên, sau trở về thành, du học ở Mỹ và trở về nước làm Tổng thơ ký một đại học VNCH xác nhận là Lê Đức Thọ đã dùng những thủ đoạn đê tiện hãm hiếp nữ cán bộ khi làm Xứ Ủy Nam Bộ. «Một đêm chị Thanh đang ngủ, bác Sáu (tức Lê Đức Thọ, mà trong khu gọi là Sáu Búa, chú thích của người viết) mò vô mùng chị. Chị sợ quá tốc mùng chạy la làng, làm lối xóm náo động. Đội bảo vệ bắn súng như Tây tới …» (Vy Thanh, tr. 290)
 .
CON CỦA ĐẠI TƯỚNG NGUYỄN CHÍ THANH
.
 .

Tên là Nguyễn Chí Vịnh, sinh năm 1957, là con út của tướng Nguyễn Chí Thanh, và là em một cha khác mẹ với Nguyễn Tấn Dũng như lời đồn đãi Dũng là con rơi của Nguyễn Chí Thanh. Vịnh học ở trường đại học quân sự ở Vĩnh Yên, nhưng chưa tốt nghiệp, được tướng Lê Đức Anh, nguyên Bộ trưởng bộ Quốc Phòng rồi sau là Chủ Tịch nước nhận làm con nuôi (cũng giống như trường hợp của Dũng).

Nguyễn Chí Vịnh kết hôn với con gái của Đặng Vũ Chính, Tổng cục trưởng Tổng Cục 2 là một cơ quan có quyền hành vô hạn và ngân sách khổng lồ bao trùm các hoạt động tình báo, quốc phòng, kinh tế, văn hóa của nước. (Cộng Sản có nhiều Tổng cục (TC) như : TC An Ninh, TC Cảnh Sát, TC Tình Báo, TC Xây Dựng, TC Hậu Cần…Mỗi Tổng Cục có nhiều Cục, thí dụ như TC An Ninh có cục A25 đặc trách về báo chí, Cục A18 kiểm soát ngoại kiều và Việt kiều, Cục A41 đặc trách về tôn giáo, Cục A24 chuyên về kiểm tra, xét hỏi, Cục A42 theo dõi bắt bớ những người chống chế độ. Những Tổng Cục trưởng và Cục trưởng đa số là ủy viên Trung ương đảng hay hàng họ với lãnh đạo cao cấp).

Đặng Vũ Chính đưa cả gia đình vào nắm các chức vụ then chốt của Tổng Cục. Con rể là Nguyễn Chí Vịnh là Tổng Cục Phó, con trai là Đặng Vũ Dũng từ lao động xuất khẩu trở về nước giữ chức Giám đốc Công ty xây dựng Hồng Bàng, hai con gái là Đặng Thị Mai và Đặng Thị Tuyết mang quân hàm đại úy phụ trách công tác mật, vợ gốc là con buôn đảm nhiệm giám đốc Khách sạn Hoàng Đế và chi nhánh công ty Decatour ở miền Trung. Riêng Nguyễn Chí Vịnh, với sự nâng đỡ tận tình của cha vợ và cha nuôi được thăng cấp từ đại úy lên đại tướng trong một thời gian kỷ lục mà trong lịch sử quân đội chưa bao giờ có. Khi Đặng Vũ Chính về hưu, Nguyễn Chí Vịnh lên thay làm Tổng Cục Trưởng.
Bộ ba Đặng Vũ Chính, Nguyễn Chí Vịnh, Lê Đức Anh dùng nhiều thủ đoạn tinh vi như thu âm lén điện thoại, chụp ảnh (như khi Lê Khả Phiêu tằng tịu với 2 nữ nhân viên trong phái đoàn công du sang Pháp) để làm áp lực khuynh đảo các ủy viên trong Trung ương đảng hay các đối thủ bởi lẽ tất cả các chóp bu của đảng đều làm điều phi pháp, tham nhũng. Nhóm nầy còn tạo chiến dịch hạ nhục Võ Nguyên Giáp như Giáp là con nuôi của trùm mật thám Pháp Marty, Giáp là tướng bất tài, sợ chết (trong trận Điện Biên Phủ, Giáp nằm trốn trong hầm để cho Nguyễn Chí Thanh và Hoàng Văn Thái chỉ huy, nhưng khi thắng trận thì giành công; khi đánh Mỹ thì sợ bom nên không dám vào Nam), tằng tịu với vợ nhà văn Đào Vũ khi bà nầy đến dạy dương cầm. Sau khi làm mưa làm gió ở Tổng Cục 2, Vịnh được chuyển qua làm Thứ trưởng bộ Quốc Phòng và được đưa vào Ủy viên Trung ương đảng kỳ đại hội XI.
Nguyễn Chí Vịnh còn có người chị tên là Nguyễn Thị Thanh Hà có thời là Phó Cục Trưởng Cục Hàng không Việt Nam.
.
CON CUA NGUYÊN CHỦ TỊCH LÊ ĐỨC ANH
.

 

.
Lê Đức Anh hiện là «bố già» trong đảng cộng sản mafia, là người lãnh đạo quân sự và chính trị cộng sản từ hơn nửa thế kỷ qua, cực kỳ thân Trung Quốc. Cả 2 ông đại tướng tên Anh (Lê đức Anh và Lê hồng Anh) đều là hai cây dù của Nguyễn Tấn Dũng (Đức Anh là dù to, Hồng Anh là dù bọc hậu) và cả hai đều xuất thân là phu cạo mủ cao su ở Hớn Quản.
Con trai của Lê Đức Anh là Lê Mạnh Hà hiện là Phó Chủ Tịch Ùy Ban Nhân dân TP HCM. Ông Hà được học bổng Fulbright du học ở Harvard từ 1998 đến 2000. Con dâu là Nguyễn thị Đoan là Phó Chủ tịch nước (thay Trương Mỹ Hoa) từ 2007 đến 2010. Bà Đoan có tiến sĩ ở Bulgarie và có tu nghiệp ở Pháp.
Được vào ủy viên Trung ương đảng là bảo đảm một chức vụ cao cấp, béo bở trong chánh phủ nên cuộc chạy đua vào chức vụ nầy thường diễn ra trong hậu trường với nhiều cuộc liên kết phe nhóm, tranh chấp ác liệt và đòn phép bẩn thỉu. Ngoài các nhân vật vừa kể, trong đại hội đảng lần thứ XI còn có các tân ủy viên sau đây :
Nguyễn Xuân Anh sinh năm 1976 là con của Nguyễn Văn Chi, Ủy viên Bộ Chính Trị, Trưởng Ban Kiểm Tra trung ương. Nguyễn Xuân Anh nhảy vọt từ Bí thư huyện Liên Châu (Đà Nẳng) đi thẳng vào Trung ương đảng. Tháng 7/2011, Anh được bổ nhiệm Phó chủ tịch UBND Thành phố Đà Nẳng và chắc chẳng bao lâu sẽ là chủ tịch, nắm giữ thành trì của miền Trung.
Trần Sĩ Thanh, sinh năm 1972. Phó bí thư tỉnh ủy Darlac là cháu của Nguyễn Sinh Hùng, Phó Thủ Tướng (Nguyễn Sinh Hùng là cháu của Hồ Chí Minh). Darlac hiện nay là một vùng béo bở, có nhiều tài nguyên và nhiều cơ sở kỹ nghệ của ngoại quốc đã và sẽ thành lập tại đây.
– Trần Bình Minh : Phó Tổng giám đốc đài truyền hình VN là con trai của Trần Lâm, nguyên Tổng giám đốc đài Tiếng nói VN.
– Nguyễn thị Kim Tuyến, Thứ trưởng Bộ Y tế là cháu ngoại của cố Tổng bí thư Hà Huy Tập.
Điểm đáng lưu ý là Cộng Sản đặt chỗ cho con cháu trước tiên vào ghế số 2 ở mỗi cơ quan bằng các chức vụ như phó (Phó Tổng Cục, Phó Cục, Cu Phó Giám đốc, Phó ban..), hay thứ (Thứ Trưởng) để chờ khi các ông số 1, vốn đang có những dù lộng cũng to để chiếm chỗ khi các ông số 1 về hưu, được điều động đi nơi khác để nhường chỗ, hay bị hất chân khi cái gốc không còn đứng vững.

Những hình thức « truyền ngôi » cho con cháu, hàng họ trong chế độ Cộng Sản
Không thể nào kể hết chi tiết các tên họ những 4C, bởi lẽ chế độ con ông cháu cha cộng sản chằng chịt ngang dọc từ trung ương đến địa phương như những dây leo, hay đúng ra như những tế bào độc hại của bịnh ung thư tràn lan khắp cơ thể, chúng tôi xin tóm tắt tổng quát cách truyền ngôi, tập quyền và tản quyền của hệ thống 4C theo như tổ chức mafia dưới 3 hình thức chính yếu là: tham chính, lập công ty kinh doanh, kết thông gia và bè đảng.
* Tham chính
Thông thường, những người có học, có khả năng thường được đề cử, bổ nhiệm vào các chức vụ chỉ huy trong các cơ quan của đảng hay chính phủ. Ngoài những nhân vật kể trên, cần kể thêm một số nhân vật đang tại chức hay vừa rời chức vụ gần đây.
Nguyễn Thiện Nhân : Phó thủ tướng là con của y sĩ Đông Dương Nguyễn Thiện Thành, gốc người tỉnh Trà Vinh (có tài liệu ghi là Biên Hòa) một cán bộ cao cấp cộng sản đã tham gia từ phong trào Việt Minh. Mặc dù Nguyễn Thiện Nhân đậu tiến sĩ ở Đông Đức và có tu nghiệp ở Harvard, đã bị mất chức Bộ Trưởng bộ Giáo Dục vì bất tài nhưng lại thích phô trương, đã đưa nền giáo dục VN đến chỗ lạc hậu, nhưng vẫn được tiếp tục lưu nhiệm chức vụ Phó thủ tướng, đúng như lời mỉa mai của giáo sư Hoàng Tụy, một nhà giáo dục được trong nước và ngoại quốc nể trọng : Bộ giáo dục (ý nói ông Nhân) trơ như đá, vững như đồng.
– Phạm Bình Minh : hiện là Bộ Trưởng Bộ ngoại giao, con của Nguyễn Cơ Thạch (tên thật là Phạm Văn Cương), phụ tá cho Lê Đức Thọ trong hội nghị hòa đàm Paris và là Bộ Trưởng bộ ngoại giao sau đó (1980-1991). Có tin là con của Phạm Bình Minh cũng đang du học ngành ngoại giao hi vọng nối nghiệp cha ông.
– Trần Tuấn Anh : nguyên lãnh sự Việt Nam tại Hoa Kỳ (San Francisco) là con của chủ tịch Trần Đức Lương.*
* Lập công ty
Những con cháu cán bộ cao cấp không có khả năng học vấn hay thiếu đạo đức (thực ra ông cha cũng đã thiếu đạo đức, nhưng thành phần các ông con nầy trác táng, lêu lỏng, không thể đảm nhiệm vai trò chỉ huy) thì quay ra kinh doanh, lập công ty. Thực ra những công ty nầy chỉ là bình phong để lợi dụng danh nghĩa của ông cha mà làm giàu phi pháp. Số 4C loại nầy thì kể sao cho hết bởi tràn lan khắp nơi ăn chịu với khắp các cơ quan. Chỉ đan kể vài tên con cháu của các cấp lãnh đạo ở Trung ương đảng.
.
Con rể của Võ Nguyên Giáp
.
Tên là Trương Gia Bình, là một tỷ phủ, giám đốc công ty FPT, là một trong những công ty lớn nhất nước cung cấp dịch vụ internet, truyền thông.
.
.
Con rơi của cố thủ tướng Võ Văn Kiệt
.
Võ văn Kiệt tên thật là Phan Văn Hòa, người được xem là cấp tiến, mở đầu cho phong trào đổi mới kinh tế. Nhân nói đến đứa con rơi của Võ văn Kiệt tên Phan Thành Nam, tưởng cần nói qua về đạo đức tồi tệ của các nhà lãnh đạo đảng cộng sản.
Ông Hoàng Dũng, Thư ký Văn phòng Trung Ương đảng đã viết về lai lịch của Phan Thành Nam như sau : Theo cụ Nguyễn Văn Linh kể thì Bộ chính trị lúc bấy giờ biết rằng cụ Hồ gặp những khó khăn và thiếu thốn về tình cảm cá nhân, như chuyện muốn nối lại mối tình với người vợ cũ ở Trung Quốc nhưng bị phản đối, do vậy bộ Chính trị có bí mật sắp xếp nhiều người phụ nữ khác để chăm sóc và phục vụ cụ Hồ về mặt sinh hoạt tình dục. Đặc biệt từ thuở còn thanh niên, cụ Hồ đã có một mối tình rất đẹp với một người con gái miền Nam (sự thật nầy đã được nhà văn Sơn Tùng sưu tầm và công bố trong bài viết «Đi tìm Út Huệ»). Biết thế nên lúc nầy Nguyễn Văn Linh là Bí thư Trung ương cục miền Nam phải kín đáo tìm kiếm trong số những cán bộ, du kích miền Nam một số cô gái còn trẻ đẹp để đưa ra miền Bắc phục vụ cụ Hồ và các vị trong bộ Chính trị (đứng đầu là Lê Duẩn và Lê Đức Thọ). Thời điểm đó thì Võ Văn Kiệt đang là ủy viên Trung ương cục được cụ Linh tin tưởng tuyệt đối và giao cho trực tiếp phụ trách nhiệm vụ đặc biệt nầy. Trong số vài cô gái tuyển lựa được lúc đó chuẩn bị bố trí bí mật đưa ra miền Bắc có một cô còn trẻ và sắc sảo họ Phan. Giữa lúc đó thì tình hình chiến sự đang diễn ra khá ác liệt nên không thể đưa các cô đi ngay được và rồi không hiểu thế nào mà ông Kiệt lại quan hệ dan díu với chính cô gái họ Phan kia. Đến lúc sự việc vỡ lỡ thì cô gái đã có thai mấy tháng, thế là cô ta phải ở lại và cái bào thai đó chính là Phan Thành Nam.
Phan Thanh Nam hiện nay là một tỷ phú đỏ, Tổng Giám Đốc Công Ty quốc doanh Tracodi, chuyên về «xuất khẩu lao động», xuất cảng hàng hóa, xây cất và du lịch.
Điều cần nói thêm là ông Kiệt cũng có chính thức 2 vợ : bà vợ cả tên là Trần Kim Anh và 3 đứa con đã chết trong chiến tranh, chỉ còn lại đứa con gái tên là Võ Hiền Dư. Ông lấy vợ kế là Phan Lương Cầm nổi tiếng tham nhũng được các công ty đặt tên là Bà Mười Cầm vì tất cả các dự án đầu tư đều phải đóng «hụi chết » cho bà ít nhứt 10%.
.
Con của nguyên thủ tướng Phan Văn Khải
.

 

Tên là Phan văn Tỵ tục danh là Hoàng Tỵ là một tay du đãng chọc trời khuấy nước, có lần vì tranh giành địa bàn buôn lậu đã bắn chết Phạm Văn Hưng là sĩ quan công an, con của Phạm Thế Duyệt cũng là đảng viên trong Trung ương đảng, chủ tịch Mặt Trận Tổ Quốc. Về kinh doanh, Hoàng Tỵ lợi dụng thế lực của cha và của các đồng chí của cha, nhập cảng lậu xe hơi cũ rồi tân trang lại bán sang Trung Đông, nhập cảng xe đạp mới nguyên chiếc từ Thái Lan, Singapore đem tháo ra từng bộ phận rồi lắp ráp lại (bởi luật VN lúc ấy chỉ cho phép bán xe đạp lắp ráp ở VN), bán với giá gấp đôi gấp ba. Hoàng Tỵ cũng là chủ nhân của hai đại khách sạn Hoàng Gia và Planet ở Saigon và HàNội, cho du khách ở tại hai khách sạn nầy được ưu tiên khỏi bị xét hỏi khi đến và khi rời phi trường. Nhờ tất cá mánh khoé và thế lực, Hoàng Tỵ cũng là một tỷ phú.
.
Con của Tướng Phùng Quang Thanh, Bộ Trưởng bộ Quốc Phòng
 .

 

Phùng Quang Thanh xuất thân là một bộ đội không có học thức nhưng nhờ phe cánh thân Trung Cộng trong đảng nên được phong quân hàm đại tướng, giữ chức Bộ trưởng Bộ Quốc Phòng từ nhiều năm nay. Con trai của Phùng Quang Thanh là Phùng Quang Hải, lý lịch cũng không ghi học lực và trường đào tạo, nhưng mang cấp bậc Thượng tá, là Tổng giám đốc Công ty xây dựng 319 là một công ty quốc doanh bao gồm hơn mươi công ty hoạt động trong lãnh vực xây cất, cung cấp vật dụng cho quân đội và các cơ quan chính phủ trên địa bàn khắp nước. Đây là một nguồn lợi khổng lồ cho gia đình họ Phùng và các phe cánh trong đảng để tham nhũng và độc quyền các lãnh vực béo bở.
Nếu cần phải kể thêm thành tích của những 4C vì ăn chia không đồng đều bị tố cáo hay bị ra tòa, hay bị làm vật tế thần thì có mấy vụ gần đây như Mai Văn Dậu, Thứ trưởng Bộ Thương Mại bị ra tòa cùng với con là Mai Thanh Hải vì tham nhũng trong việc xuất nhập cảng, Đoàn Văn Kiểm, chủ tịch Hội đồng Quản Trị Tập đoàn Than – Khoáng sản bị bãi chức vì cho phép em là Đoàn Duy Thức khai thác quặng mỏ trái phép, Phạm Thanh Bình, chủ tịch Hội Đồng Quản trị Tổng đoàn Công nghiệp Tàu Thủy VN bị bắt giam vì bổ nhiệm con trai là Phạm Bình Minh (một Bình Minh khác, không phải là Bình Minh con Nguyễn cơ Thạch) vào công ty Vinashin, Đỗ Trung Tá, Bộ trưởng bộ Bưu Chính Viễn Thông, bị cảnh cáo vì cho con rể là Hoàng Minh gian lận trong việc trúng thầu.
.
 .

Đảng Cộng Sản Việt Nam cai trị bằng bạo lực và áp dụng luật mafia ngay trong hàng ngũ đảng viên cao cấp của họ theo kiểu mạnh được yếu thua. Trong sự phá sản hàng tỷ mỹ kim của công ty Vinashin, người chịu trách nhiệm là Nguyễn Tấn Dũng thì không hề hấn gì trong khi bộ trưởng Phạm Thanh Bình bị bắt giam vì một sự bổ nhiệm. Vụ ăn hoa hồng trong việc in giấy bạc polymer ở Úc (12 triệu Úc kim) liên hệ đến nguyên Thống đốc ngân hàng Lê đức Thúy đã có bằng chứng rõ ràng thì chẳng ai bị tù tội.

Lãnh đạo Việt Nam hôm nay làm trò hề và gây ô nhục cho đất nước mà không biết nhục. Vũ Văn Hiến, Ủy viên trung ương đảng, Tổng giám đốc Truyền hình VN gởi con gái tên Kiều Trinh sang Thụy Điển tu nghiệp bị cảnh sát Thụy Điển bắt vì ăn cắp trong siêu thị, bị báo chí trong nước phanh phui nhưng vẫn được bổ nhiệm làm Trưởng phòng Văn hóa – Du Lịch của đài truyền hình, chưa kể Hiến đưa bè đảng vào cơ quan để tham nhũng, bị nhân viên các cấp tố cáo nhưng vẫn bình chân như vại.
 .
* Kết thông gia và bè đảng
Người Việt Nam ta có câu Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã, những cán bộ cao cấp gian manh thường tìm gần nhau để hợp quần gây sức mạnh trong công cuộc trấn áp, bốc lộ lương dân. Những cuộc liên kết giữa các cán bộ qua các cuộc hôn nhân là một hình thức lưu chuyển quyền hành và tham nhũng theo hàng ngang và hàng chéo đến độ hệ thống tham nhũng Việt Nam hôm nay là những loại ung thư đang tàn phá một cơ thể chỉ chờ ngày bị tiêu hủy toàn diện. Dĩ nhiên không sao kể hết loại liên kết nầy, chỉ cần đan kể vài thông gia gần đây tạo nhiều tai tiếng to lớn.
 .
 .
Tại Việt Nam, nhắc đến tướng công an Nguyễn Đức Nhanh là người dân kinh sợ và khinh bỉ vì chánh sách đàn áp lương dân và tham nhũng của tên trùm công an nầy (đàn áp giáo dân Thái Hà). Nhanh đảm nhiệm 2 chức vụ : Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2 (tổng cục 1 : lo về tình báo hải ngoại, tổng cục 2 : lo về an ninh quốc nội) kiêm Giám Đốc Công An TP HàNội. Nguyễn Đức Nhanh kết thông gia với Nguyễn Thanh Sơn, Thứ trưởng bộ ngoại giao, Chủ tịch Ủy Ban nhà nước về người VN ở nước ngoài. Như vậy hai gia đình thông gia nầy đảm nhiệm vai trò chiến lược của đảng Cộng Sản và chánh phủ Việt Nam.

Trương Mỹ Hoa, Phó chủ tịch Quốc hội (2002-2007) là con của Trương Văn Đẩu, Tỉnh ủy viên Gò Công (cũng gốc là phu cạo mủ cao su) có em là Trương thị Hiền, Hiệu trưởng trường Cán bộ TPHCM, kết hôn với Lê Thanh Hải, Ủy Viên Trung ương đảng, Thành ủy TP Hồ Chí Minh. Lê Thanh Hải làm sui với Huỳnh Ngọc Sỹ nổi tiếng trong vụ tham nhũng xây xa lộ Đông Tây nối liền từ Bình Chánh đến Saigon, qua Thủ Thiêm chạy đến Cát Lái trên đường về miền Tây. Xa lộ nầy do Nhật viện trợ và giao cho công ty Nhật PCI xây cất, Huỳnh Ngọc Sỹ làm quản lý. Lúc đầu, Sỹ đòi hối lộ 15%, sau sụt xuống 10% và đã nhận 2,6 triệu MK thì bị báo chí Nhật phanh phui, 4 người đại diện công ty Nhật bị Nhật bắt giữ vì đưa hối lộ. Chánh phủ Nhật đòi Việt Nam phải có biện pháp chế tài với người nhận hối lộ là Huỳnh ngọc Sỹ nhưng VN vẫn binh vực Sỹ khiến Nhật trả đũa bằng cách ngưng tất cả tiền cho vay ODA và đòi lại 30 triệu tiền viện trợ, điều hiếm có trong lịch sử bang giao quốc tế.

Trước áp lực của các quốc gia viện trợ cho VN và Mỹ, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đành phải miễn cưỡng đưa Sỹ ra tòa với án chung than khổ sai, sau giảm xuống 20 năm tù. Thì ra Sỹ chỉ là vật tế thần của một tập đoàn tham nhũng, mà những án vụ tham nhũng như thế chỉ là hạn hữu trong số ngàn ngàn vụ tham nhũng chẳng bao giờ bị phanh phui bởi được bao che từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài và 700 cơ quan truyền thông trong nước chỉ là bầy két lập lại luận điệu của nhà cầm quyền. Tuy nhiên, thỉnh thoảng vẫn có một vài ngoại lệ khi báo chí đăng tin tham nhũng liên quan đến 4C, hoặc vì nhà báo có lương tâm, hoặc vì thanh toán nội bộ bởi chia phần không sòng phẳng. Thí dụ như trường hợp khi báo chí đăng tin tiền in của công ty TechBank của Lê Đức Minh là con của nguyên thống đốc ngân hàng Lê Đức Thúy không có phẩm chất thì hai tờ báo Thời Đại và Công Lý bị đình bản, và 6 tờ báo khác như Tuổi Trẻ, Thanh Niên, An Ninh Thủ Đô, Công Luận…bị cảnh cáo.

Về chuyện nhà báo bị khủng bố vì dám đá động đến việc tham nhũng của các 4C, tưởng cũng nên nhắc lại một vụ tham nhũng lớn bị phanh phui cách đây 5 năm, nhưng vụ án đã bị ém nhẹm vì liên quan đến các thủ phạm ở chóp bu, nhưng hai phó tổng biên tập của báo Thanh Niên và Tuổi Trẻ bị bắt giam và 5 phóng viên bị thu hồi thẻ hành nghề vì tội phá hoại an ninh quốc gia. Vụ tham nhũng bị vở lở khi công an bắt được 2 cầu thủ cá độ ngày 13/12/2005 và cuộc điều tra cho biết Bùi Tiến Dũng, Tổng Giám ĐốcĐơn vị Quản Lý các dự án PMU-18 đã chi tiêu 2,6 triệu trong trò chơi cờ bạc nầy. PMU-18 (Project Management Unit) trực thuộc bộ Giao Thông Vận Tải (GTVT) là cơ quan phụ trách thực hiện xây cất các dự án cầu đường với số vốn 20 tỷ gồm ngân sách quốc gia và quỹ tài trợ ODA của Nhật, Tây Âu và Ngân hàng Quốc Tế (World Bank).

Bùi Tiến Dũng là con trai của Bùi Thiện Ngộ, Bộ trưởng Bộ Công An, cấu kết với Nguyễn Việt Tiến (Thứ trưởng Bộ GTVT), Phạm Tiến Dũng (Trưởng phòng tài chánh), rể của Nguyễn Việt Tiến cùng với Phạm Hoàng Hải, rể của Nông Đức Mạnh, Nguyễn Việt Bắc, rể của Đào Đình Binh (Bộ trưởng Bộ GTVT) cùng với nhiều bạn bè hàng họ lập ra hàng chục công ty để trúng thầu dù các công ty nầy không khả năng và không vốn.

Tài sản tham nhũng của Nguyễn Việt Tiến, Phạm Hoàng Hải, Nguyễn Việt Bắc, mỗi người trên trăm triệu MK. Báo Thanh Niên tiết lộ là có ít nhất 40 quan chức cao cấp liên quan đến vụ tham những khổng lồ nầy. Bị gọi ra thẩm vấn trước tòa án, Bộ trưởng Đặng Đình Binh tuyên bố «Tôi thuộc diện Trung ương quản lý» có nghĩa là chỉ trả lời với trung ương đảng mà thôi. Ngoài ra, 2 đảng viên cao cấp là tướng Cao ngọc Oánh, Cục trưởng Cục điều tra C15, Phạm Xuân Quấc, Cục trưởng Cục điều tra C14 cũng bị dính liếu, nhưng được miễn truy tố, rốt cuộc chỉ có Bùi Tiến Dũng và các « tép riêu» bị lãnh án.

 * * *
Advertisement

5 thoughts on “Việt Nam Cộng Sản – Sau 30 năm Thống Trị Vietnam

  1. Nhân ngày ban hành Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà 26-10-1956 nghĩ về:

    Sự hình thành nền Cộng Hòa và Chế độ Việt Nam Cộng Hòa tại Việt Nam

    Thiện Ý

    · Thấm thoát mà đã 59 năm(1956-2015), nền cộng hoà được thiết lập tại Việt Nam với bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956 tại Miền Nam Việt Nam, đối kháng với chế độ độc tài toàn trị cộng sản Bắc Việt mang bảng hiệu giả mạo “Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà”, bảng hiệu mà Hồ Chí Minh đã dựng lên sau cái gọi là Cách Mạng Tháng 8 năm 1945 cướp được chính quyền bằng xảo thuật chính trị.

    · Giả mạo về một nền dân chủ cộng hoà, vì trước sau đều chỉ nhằm mục đích lừa bịp công luận thế giới để tìm hậu thuẫn quốc tế, ru ngủ nhân dân, trong khi thực chất vẫn là độc tài cộng sản phản dân chủ.

    · Và vì vậy, có thể nói nền cộng hoà thực sự đã chỉ được thiết lập và thực thi tại Việt Nam kể khi Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hoà được ban hành ngày 26-10-1956. Vì nền cộng hoà ấy đã là nền tảng cho một chế độ chính trị chủ quyền thuộc về toàn dân, một chế độ dân chủ cả hình thức lẫn nội dung, dù phôi thai còn nhiều khuyết tật, song đã phản ánh đúng ý nghĩa của từ ngữ Cộng Hòa và ý nguyện của toàn dân Việt Nam.

    Hôm nay, nhân ngày 26-10- 2015, nghĩ về Hiến pháp Việt Nam Cộng Hoà ban hành ngày 26-10-1956, chúng tôi muốn gửi bài viết này đến quý độc giả người Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngoài nước, đề cùng tự hào với quá khứ rằng chúng ta đã chọn đúng nền tảng một chế độ chính trị phù hợp với ý nguyện của toàn dân và tin tưởng mãnh liệt ở tương lại, rằng nhất định chúng ta sẽ thiết lập được một chế độ dân chủ trên nền tảng cộng hoà đã được xác lập 55 năm qua tại Việt Nam.Nội dung bài viết lần lượt trình bầy:

    1.- Bối cảnh hình thành Nền Cộng Hòa tại Việt Nam.
    2.- Nền Cộng Hòa và Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm
    3.- Nền Cộng Hòa và các bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa.
    4.- Nền Cộng Hòa và các chế độ Việt Nam Cộng Hòa (Đệ nhất và Đệ Nhị VNCH)

    I/- BỐI CẢNH HÌNH THÀNH NỀN CỘNG HÒA TẠI VIỆT NAM.

    Như quý độc giả đã biết, sau Thế Chiến Hai, chủ nghĩa thực dân cũ đã buớc vào thời kỳ suy tàn,xu thế giải thực đã buộc các đế quốc từng có nhiều thuộc địa như Pháp, Anh, Tây Ban Nha, Bố Đào Nha, Hà Lan ….. đã phải lần lược trao trả độc lập cho các nước bị trị. Điển hình là một số nước trong vùng như Ấn Đô và Hồi Quốc được Đế Quốc Anh trao trả độc lập năm 1947; Indonesia được Hà Lan trao trả độc lập năm 1949; Triều Tiên được Nhật trao trả độc lập năm 1945; Lào và Cao Miên Pháp trao trả độc lập năm 1953. . . Do đó, theo nhận định của nhiều sử gia và học giả nghiên cứu chính trị và lịch sử, thì chẳng cần cuộc kháng chiến gian khổ 9 năm do đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN) phát động và chủ đạo tiến hành (1945- 1954) làm hao tổn nhiều xương máu nhân dân, tàn phá tài nguyên đất nước vô ích, để có được cái gọi là “Chiến thắng Điện Biên lịch sử”(7-5-1954), thì thực dân Pháp sớm muộn cũng phải trao trả độc lập cho Việt Nam cũng như nhiều thuộc địa khác. Chẳng qua Hồ Chí Minh và Cộng đảng Việt Nam tiến hành cuộc chiến tranh này, chỉ là lợi dụng lòng yêu nước của nhân dân, dùng chiêu bài độc lập dân tộc để chiếm quyền thống trị đất nước, để áp đặt chế độ độc tài đảng trị CS, theo chủ trương bành trướng lãnh thổ, nhuộm đỏ tòan cầu của cộng sản quốc tế, đứng đầu là hai tân đế quốc Đỏ Nga – Tầu

    Thật vậy, trên thực tế, trước áp lực của xu thế giải thực, thực dân Pháp đã phải lùi từng bước, trao trả độc lập từng phần cho Việt Nam, qua các Hiệp Định Vịnh Hạ Long ngày 5 tháng 6 năm 1948, “đề cử” hòang đế Bảo Đại làm Quốc Trưởng, và Pháp thừa nhận Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Quốc Trưởng Bảo Đại như là một quốc gia độc lập nằm trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 8 tháng 3 năm 1949 Tổng Thống Pháp Vicent Auriol và Quốc Trưởng Bảo Đại đã ký “Thỏa Ước Elysée”. Theo đó, Pháp hứa sẽ xây dựng cho Việt Nam một quân đội quốc gia chống cộng. Đây là khởi điểm của sự thành lập Quân Đội Quốc Gia Việt Nam, gốm có các binh lính và sĩ quan gốc “Khố Xanh Khố Đỏ” của Pháp chuyển qua. Chính những sĩ quan có xuất thân này, đã nắm vận mệnh quốc gia sau khi đảo chánh lật đổ Tổng Thống Diệm, cho đến ngày Miền Nam mất vào tay cộng sản (30-4-1975).

    Thề rồi, cuối cùng thực dân cũng đã Pháp phải trao trả độc lập hòan tòan cho Việt Nam. NhưngViệt Nam có số phận không may đã rơi vào thế gọng kìm của một chiến lược quốc tế mới, với cuộc chiến tranh ý thức hệ (cộng sản chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa), nên đất nước bị qua phân theo Hiệp Định Genève ngày 20-7-1954, do sự áp đặt của các cường quốc, trái với nguyện vọng quốc dân Việt Nam.

    Hệ quả là một nửa nước Miền Bắc rơi vào tay đảng Cộng sản Việt Nam, thiết lập “Nền Chuyên Chính Vô Sản” , trên đó xây dựng chế độ độc tài tòan trị cộng sản, với quyền thống trị độc tôn, độc quyền của đảng CSVN, một công cụ chiến lược của hai tân đế quốc đỏ Nga-Tầu . Nửa nước Miền Nam Việt Nam được trao trả cho chính quyền chính thống quốc gia Việt Nam, thiết lập nền Cộng Hòa trên đó xây dựng chế độ tự do dân chủ, tức Việt Nam Cộng Hòa, với sự hổ trợ của Hoa Kỳ và các đồng minh Thế Giới Tự Do trên nguyên tắc, song trên thực tế đã bị Hoa Kỳ biến thành công cụ chiến lược của mình, một công cụ ngay tình khác với công cụ tri tình cho Nga- Tầu của Cộng đảng VN và chế độ Cộng sản Bắc Việt. Vì đảng Cộng sản Việt Nam vốn là một công cụ bành trướng của cộng sản quốc tế, đứng đầu là Nga Tầu lúc đó, nên đã phát động và tiến hành cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn để thôn tính Miền Nam Việt Nam(1954-1975).

    Chính quyền chính thống quốc gia và nhân dân Miền Nam,trong thế chẳng đặng đừng đã phải làm tiền đồn chống cộng cho Hoa Kỳ và Thế giới tự do, buộc lòng phải thực hiện cuộc chiến tranh tự vệ để ngăn chặn, đẩy lùi cuộc chiến tranh xâm lược đó của Cộng sản Bắc Việt, để bảo vệ phần đất tự do Miền Nam, trong ý hướng giữ vững độc lập quốc gia, chủ quyền dân tộc, để vừa chiến đấu chống cuộc xâm lăng của CSBV, vừa nỗ lực xây dựng thành công chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa, tiến tới thống nhất đất nước, không phải bằng bạo lực quân sự, mà bằng sự ưu thắng của chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa và nền kinh tế tự do phát triển phồn vinh ở Miền Nam, trên chế độ độc tài tòan trị CS và nền kinh tế chỉ huy nghèo nàn lạc hậu ở Miền Bắc . Nghĩa là chúng ta, muốn tiến tới tình trạng như Nam Bắc Hàn hiện nay, mà sự thống nhất Hàn Quốc một cách hòa bình, với sự ưu thắng của Nam Hàn dân chủ phồn vinh trên Bắc Hàn độc tài cộng sản nghèo đói và lạc hậu, chỉ còn là vấn đề thời gian.

    Chính vì mục tiêu và lý tưởng vừa nêu, Nền Cộng Hòa đã được xác lập tại Việt Nam, trên đó xây dựng chế độ dân chủ Việt Nam Cộng Hòa thay thế cho chế độ quân chủ chuyên chế tồn tại nhiều thế kỷ trước đó tại Việt Nam.

    II/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CỐ TỔNG THỐNG NGÔ ĐÌNH DIỆM:

    Theo tự điển Hán Việt của học giả Đào Duy Anh, Cộng Hòa (Republic:Cộng đồng, dân chúng)có ý nghĩa như là nền tảng cho một chế độ dân chủ, “Chế độ Cộng Hòa” (Repubican Regime)với “Chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân”. Cố Tổng Thống Ngô Đình Diệm được coi là người khai sáng Nền Cộng Hòa như thế tại Việt Nam.

    Sử liệu cận đại Việt Nam ghi nhận các sự kiện có ý nghĩa sau đây: ngày 7 tháng 7 năm 1954, chí sĩ Ngô Đình Diệm đang sống lưu vong ở hải ngọai đã về nước chấp chánh theo sự ủy thác của Vua Bảo Đại trong ngôi vị Thủ Tướng Chính Phủ Quốc Gia Việt Nam, để chống cộng và nếu cần chống cả thực dân và phong kiến để bảo vệ tổ quốc (Như hồi ký của cựu hòang Bảo Đại đã viết). Vì xu thế thời đại, Thủ Tướng Diệm không thể duy trì thể chế quân chủ chuyên chế, nên với sự hậu thuẫn của 18 đòan thể chính trị (Hội Đồng Cách Mạng Quốc gia), họp tại Dinh Độc Lập đã quyết định thiết lập chế độ Cộng Hòa, theo xu thế thời đại, đáp ứng ý nguyện của quốc dân, qua cuộc trưng cầu dân ý ngày 23-10-1955 truất phế vua Bảo Đại, vị vua cuối cùng của chế độ quân chủ Việt Nam thiết lập nhiều thế kỷ trước đó, tôn vinh Thủ Tướng Ngô Đình Diệm là Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa.

    Để có căn bản pháp lý, ngày 26-10-1955 Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ban hành Hiến Ước Tạm Thời Số 1, và ngày 23 tháng 1 năm 1956 đã ký ban hành Dụ Số 8 thiết lập Quốc Hội Lập Hiến định hướng cho chế độ Cộng Hòa sẽ được xác lập. Trên căn bản các văn kiện pháp lý hành chánh này, nhân dân Miền Nam lần đầu tiên được cầm lá phiếu với tư cách là công dân một nước độc lập, có chủ quyền, đi bầu người đại diện vào Quốc Hội Lập Hiến để thay mặt mình sọan thảo ra một bản hiến pháp dân chủ trên nền tảng Cộng Hòa đầu tiên. Trong vòng 9 tháng sau, Quốc hội do dân bầu này đã hòan thành bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa và ngày 26 tháng 10 năm 1956,Thủ Tướng Ngô Đình Diệm đã ký ban hành bản hiến pháp đầu tiên làm căn bản thíêt lập các định chế quốc gia, với tam quyền phân lập và cơ cấu của một chính quyền cộng hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân.

    III/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CÁC BẢN HIẾN PHÁP VIỆT NAM CỘNG HÒA.

    Như trên đã trình bầy Nền Cộng Hòa là nền tảng của một chế độ chính trị với chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân, theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây, tương tự quan niệm dân chủ Phương Đông “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh”, đều lấy “Dân làm gốc”. Tiếc rằng, quan niệm dân chủ này chỉ có trong sách vở ở xã hội phong kiến, thực tế Vua vẫn là tối thượng, chủ quyền quốc gia thuộc về vua, chứ không phải của tòan dân. Cũng như trong “nền chuyên chính vô sản” chủ quyền quốc gia thuộc về đảng cộng sản, quyền “Làm chủ của nhân dân” chỉ là bánh vẽ lừa mị nhân dân.

    Vì vậy muốn chủ quyền quốc gia thuộc về tòan dân, cần xây dựng một chế độ dân chủ trên nền tảng Cộng Hòa. Để thiết định chế độ Dân Chủ Cộng Hòa này, cẩn có một bản Hiến Pháp, là một văn kiện pháp lý căn bản qui định rõ quyền lợi nghĩa vụ người dân trong tương quan với các cơ quan công quyền, với các viên chức được người dân ủy quyền qua lá phiếu trong các cuộc bầu cử tự do, cử người đại diện cho dân, làm nhiệm vụ công bộc ăn lương của nhân dân, điều hành guồng máy công quyền quốc gia, từ thượng tầng kiến trúc đến hạ tầng cơ sở, theo ý nguyện của người dân, sao cho xã hội ổn định, phát triển, quốc gia phú cường, mọi tầng lớp nhân dân có điều kiện phát triển đồng đếu, “cộng đồng đồng tiến”, có đời sống sống ấm nó, mưu cầu hạnh phuc riêng (cá nhân) cũng như chung (tập thể).

    Trong ý hướng trên, bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên được sọan thảo và ban hành ngày 26-10-1956 và bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa thứ hai đuơc ban hành ngày 1-4-1967. Bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 26-10-1956 được sọan thảo dựa trên hai nền tảng triết lý và chính trị. Nền tảng triết lý là triết học duy tâm, lấy con nguời là trung tâm, là chủ thể xã hội và là đối tuợng phục vụ của xã hội.Nền tảng chính trị là chủ nghĩa nhân vị, trên đó thiệt lập chế độ cộng hòa với chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân,các quyền dân chủ, dân sinh và nhân quyền được tôn trọng và bảo vệ . Chủ đích của các nhà lập hiến khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nền tảng cho chế độ Cộng Hòa để soạn thảo ra Hiến Pháp hữu thần Việt Nam Cộng Hòa là để đối kháng với triết học duy vật và chủ nghĩa Cộng Sản vô thần, là nền tảng hiến pháp của chế độ vô thần Cộng sản Bắc Việt, vốn coi con nguời là sản phẩm kinh tế, là công cụ của xã hội, cá nhân phải phục vụ xã hội và quyền lợi cá nhân phải hy sinh cho quyền lợi tập thể (thực chất là hy sinh cho quyền lợi của một tập đòan thống trị CS), trong một xã hội mà những nguời cộng sản muốn thiết lập, đó là xã hội “Xã hội chủ nghia”, giai đọan đầu của xã hội cộng sản mà đỉnh cao là “Thiên đường cộng sản” (!?!)

    Tham vọng của các nhà lập hiến Việt Nam khi chọn chủ nghĩa Nhân Vị làm nền tảng cho chế độ Cộng Hòa đối kháng với chủ nghĩa cộng sản Bắc Việt với chế độ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (giả hiệu) như là một võ khí lý luận để đánh bại đối phương về mặt ý thức hệ, song song với nỗ lực quân sự đập tan cuồng vọng xâm lăng Miền Nam của Cộng sản Bắc Việt lúc bấy giờ. Với võ khí lý luận là chủ nghĩa Nhân Vị và chế độ Cộng Hòa, các nhà lập hiến Việt Nam Cộng Hòa tin rằng, nguời dân sẽ thấy đuợc hai con đuờng “Nhân vị chủ nghĩa” và “Cộng sản chủ nghia” dẫn đến mục tiếu tối hậu hòan tòan trái nguợc: Chủ nghia nhân vị “Xây dựng một xã hội vì con nguời,tôn trọng phẩm giá con nguời và xã hội phải phục vụ lợi ích tối thuợng của con nguời”. Trong khi chủ nghĩa cộng sản “xây dựng một xã hội Vì đảng cộng sản, nô dịch và xã hội hóa con nguời, biến con nguời thành công cụ phục vụ xã hội(thực chất là phụng vụ giai cấp thống trị), nhân vị bị hạ thấp ngang tầm lòai vật”(theo lý luận và thực hành Duy vật biện chứng của CS).

    Đồng thời, chủ nghĩa Nhân Vị sẽ là nền tảng cho chế độ chính trị Cộng Hòa, để bảo đảm được nhân vị và các nhân quyền căn bản của người dân. Trong bối cảnh cuộc chiến tranh chống cộng bảo vệ nền Cộng Hòa và chế độ dân chủ VNCH, chủ nghĩa Nhân Vị giúp nguời dân phân biệt đuợc mục tiêu và lý tuởng tranh đấu tối hậu của nguời Việt Quốc gia là thiết lập cho kỳ đuợc một chế độ dân chủ cộng hòa là vì nhân vị và phẩm giá con người, vì hạnh phúc của nhân dân, quyền dân chủ dân sinh và nhân quyền được bảo đảm với tam quyền phân lập, trái nguợc với chế độ độc tài tòan trị cộng sản độc tài, độc tôn và độc quyền thống trị của đảng CSVN, vì quyền lợi của giai cấp thống trị là các cán bộ đảng viên CS.

    Chính vì vậy mà chủ thuyết nhân vị đuợc xác tín qua phần “Mở Đầu” của Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa ngày 26-10-1956 như sau:
    “ Tin tuởng ở sự truờng tồn của nền văn minh Việt Nam, cần có trên nền tảng duy linh mà tòan dân đều có nhiệm vụ phát huy;
    “ Tin tuởng ở giá trị siêu việt của con nguời mà sự phát triển tự do. Điều hòa và đầy đủ trong cương vị cá nhân cũng như trong đời sống tập thể phải là mục đích của mọi họat động quốc gia. . .”.

    Như vậy, chính trên nền tảng chủ nghĩa Nhân Vị, Quốc hội Lập Hiến đầu tiên của Quốc Gia Việt Nam đã sọan ra bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa đầu tiên,(hòan tòan khác với cái gọi là Hiến pháp Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa của Cộng sản Bắc việt “ngụy cộng hòa”), và đã đuợc Thủ Tướng Ngô Đinh Diệm, sau trở thành vị Tổng Thống đầu tiên chế độ Việt Nam Cộng Hòa, đã ký ban hành ngày 26-10-1956.

    Nội dung Bản Hiến Pháp này,ngòai phần “Mở Đầu”, gồm 10 Thiên và 98 Điều thể hiện rõ Nguyên tắc phân quyền: Thiên thứ nhất quy định những “Điều khỏan căn bản”; Thiên Thứ Hai: “Quyền lợi và Nhiệm vụ nguời dân”; Thiên thứ ba:“Tổng Thống”; Thiên thứ tư: “Quốc Hội”; Thiên thứ năm “Thẩm Phán”; Thiên Thứ sáu “Đặc biệt Pháp Viện”; Thiên Thứ Bẩy “Hội ĐồngKinh Tế Quốc gia”; Thiên thứ tám “Viện Bảo Hiến”; Thiên Thứ Chín “Sửa Đổi Hiến Pháp” và Thiên Thứ muời “Các Điều Khỏan Chung”.

    Cuộc đảo chánh quân sự ngày 1-11-1963, với sự trợ giúp của ngọai bang đã đưa đến cái chết thảm thương cho Cố Tổng Thống Ngô Đinh Diệm, nguời có công khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam. Hiến pháp Việt Nam Cộng Hòa ngày 26-10-1956 bị hủy bỏ cùng với sự cáo chung nền Đệ Nhất Việt Nam Cộng Hòa.

    Sau những năm triền miên bất ổn chính trị, xã hội xáo trộn do các phe phái chính trị quân sự tranh giành quyền lực (1963-1967) Bản Hiến Pháp Đệ Nhị Việt Nam Cộng Hòa đã được Quốc Hội Lập Hiến thông quan ngày 18-3-1967 và đã được Tướng Nguyễn Văn Thiệu trong tư cách Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Đạo Quốc gia ban hành ngày 1-4-1967. Cuộc bầu cử ngày 3-9-1967 đã đưa Tướng Nguyễn Văn Thiệu lên ngôi vị Tổng Thống Việt Nam Cộng Hòa, là vị Tổng Thống thứ hai của nền Cộng Hòa Việt Nam.

    Ngày 5-4-1975,truớc áp lực của ngọai bang và biến chuyển của tình thế không còn kiểm soát được nữa, Tổng Thống Thiệu đã phải từ chức và trao quyền cho Phó Thổng Thống Trần Văn Hương theo qui định của Hiến Pháp. Chưa đầy một tháng sau, ngày 28-4-1975, Tổng Thống Trần Văn Huong, vị Tổng Thống thứ ba và cũng là vị Tổng Thống cuối cùng của Việt Nam Cộng Hòa , do áp lực của tình thế, đã lại phải từ chức để trao quyền Tổng Thống VNCH ngoài dự liệu của Hiến Pháp cho Tướng Dương Văn Minh làm nhiệm vụ khai tử chế độ đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa theo sự đạo diễn, sắp xếp của ngọai bang, như ông ta đã từng theo lệnh ngọai bang cầm đầu nhóm đảo chánh phá đổ chế độ Đệ nhất Việt Nam Cộng Hòa, sát hại Tổng Thống Diệm, người khai sáng nền Cộng Hòa Việt Nam 12 năm trước đó (1963-1975)

    Nếu so sánh tổng quát hai bản Hiến Pháp chế đô đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa, cả hai có nền tảng chung là Cộng Hòa, cùng vận dụng nguyên tắc phân quyền theo học thuyết chính trị dân chủ Phương Tây, trong việc thiết lập và điều hành các định chế quốc gia và guống máy công quyền, nhằm thể hiện “Quyền lực quốc gia thuộc về tòan dân” và bảo đảm các nhân quyền và dân quyền cơ bản của công dân được tôn trọng, bảo vệ và hành xử.

    Nhưng khác là Hiến pháp 26-10-1956 dựa trên hai nền tảng chủ nghĩa nhân vị và học thuyết dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Hòa, với nguyên tắc phân quyền, còn bản Hiến Pháp 1-4-1967, chỉ dựa trên nền tảng chủ thuyết chính trị dân chủ Phương Tây để thiết lập chế độ Cộng Hòa. Nếu so sánh nội dung thì Hiến pháp VNCH ngày 1-4-1967 hòan chỉnh, tiến bộ hơn Hiến Pháp 26-10- 1956, với các định chế quốc gia và cơ cấu tổ chức chính quyền có nhiều điểm giống Hiến Pháp Hoa Kỳ nên có tính dân chủ cao hơn, như phân định rõ Tổng Thống nắm quyền hành pháp, Quốc Hội lưỡng viện (Thượng viện và Hạ viện)lập pháp và Tối cao Pháp Viện nắm quyền tư pháp, thể hiện rõ quyền lực quân bình của nguyên tắc tam quyền phân lập. Trong khi, Hiến pháp 26-10-1956, chỉ có quyền hành pháp mạnh (Tổng Thống) và lập pháp yếu(Quốc Hội) là thể hiện qua cơ chế, còn tư pháp chỉ quy định như một đòan thể (Thẩm phán đoàn) không có tính cơ cấu mạnh. Thế nhưng, việc vận dụng Hiến Pháp vào thực tế thì có lẽ, Hiến Pháp VNCH 26-10-1956 có thể là phù hợp hơn trong bối cảnh đất nước đang có chíến tranh lúc bấy giờ(cần một hành pháp mạnh), với trình độ ý thức dân chủ người dân chưa cao và đối phương CS có thể lợi dụng quyền dân chủ rộng rãi để lũng đọan chính quyền, quân đội và các lực lương an ninh của VNCH, như thực tế cho thấy.

    IV/- NỀN CỘNG HÒA VÀ CÁC CHẾ ĐỘ VIỆT NAM CỘNG HÒA.

    Như vậy nền cộng hòa thể hiện rõ mục tiêu chống cộng bấy lâu nay của người Việt Quốc gia hay là người Việt Nam không cộng sản là để nhằm thành đạt mục tiêu tối hậu là xây dựng một chế độ dân chủ đích thực, chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã được xác lập tại Việt Nam, đánh dấu bằng sự ra đời của bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa 26-10-1956. Chế độ đó là chế độ đệ nhất và đệ nhị Việt Nam Cộng Hòa kế tiếp nhau (1956-1975).

    Ngày 30-4-1975, cộng sản Bắc Việt đã cưỡng chiếm Miền Nam, vi phạm trắng trợn Hiệp Định Paris ngày 27-1-1973 , tức vi phạm luật pháp quốc tế, trước sự đồng lõa, phủi tay của đồng minh Hoa kỳ, và sự làm ngơ của quốc tế, cụ thể là các cường quốc đế quốc đóng vai trò trung tâm quyền lực thế giới bảo đảm việc thực thi Hiệp Định Paris, thông qua tổ chức Liên Hiệp Quốc, vốn là công cụ của họ, do họ dựng lên và vì quyền lợi ưu tiên của họ, nhân danh nền hòa bình thế giới áp chế các dân tộc nhược tiểu.

    Như thế là Chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã bị cưỡng tử về mặt thực tế, song chúng tôi cho rằng vẫn tồn tại về mặt pháp lý căn cứ theo Điều 15 và nhiều điều khỏan khác trong Hiệp Định Paris về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình cho Việt Nam. Chế độ Việt Nam Công Hòa chỉ không tồn tại trên đất nước Việt Nam trong tư thế một quốc gia với đầy đủ ba yếu tố cấu thành: lãnh thổ, chính quyền và dân chúng, song vẫn tồn tại về mặt pháp lý, với thực tế là hầu hết bộ phận đầu não chính quyền, và một số khá đông (nay ước chừng 3-4 triệu) các thế hệ quân, dân, cán chính của chế độ Việt Nam Cộng Hòa đã kịp di tản ra nước ngòai trước ngày 30-4-1975, hay chậy trốn chế độ CS sau này, trong thân phận lưu vong, vẫn không bỏ cuộc, đã quy tụ lại tại hải ngọai tiếp tục cuộc chiến đấu chống cộng, với cùng mục tiêu đánh đổ chế độ độc tài cộng sản, thành đạt mục tiêu tối hậu là tái lập chế độ Dân Chủ trên nền Nền Cộng Hòa đã được xác lập tại Việt Nam từ năm 1956;và hiện vẫn tồn tại trên đất nước Việt Nam, trong lòng hơn khoảng 90 triệu nhân dân Việt Nam với khát vọng tự do dân chủ, vì các quyền tự do, dân chủ, dân sinh, nhân quyền đã và đang bị “nền chuyên chính vô sản” với chế độ “Độc tài tòan trị cộng sản” cướp đọat và chà đạp. Khát vọng này đã và đang được nhân dân trong nước thể hiện ngày một lan rộng và mạnh mẽ qua các cuộc đấu tranh đòi dân chủ, dân sinh, nhân quyền, tức đòi tái lập nền Cộng Hòa đã được xác lập trước đây,bởi chính quyền Quốc gia chính danh,kế thừa lịch sử dựng nước và giữ nước của tiền nhân; trái với chính quyền cộng sản ngụy danh, kế thừa lịch sử bành trướng quyền thống trị thế giới của cộng sản quốc tế, phản dân hại nước, như mọi người đều biết qua việc làm của họ, kề từ khi những môn đồ đầu tiên, đứng đầu là Hồ Chí Minh tình nguyện làm môn đồ của cộng sản quốc tế, du nhập chủ nghĩa cộng sản vào Việt Nam, tụ đảng từ ngày 3-2-1930 làm công cụ thực hiện nghĩa vụ quốc tế cộng sản để mở mang bờ cõi cho các tân đế quốc đỏ Nga-Tầu, phá họai tòan diện đất nước, để lại hậu quả nghiêm trọng nhiều mặt, lâu dài cho dân tộc Việt Nam, mà mai hậu sẽ mất nhiều thời gian và công sức dọn dẹp, tái tạo.

    • KẾT LUẬN:

    Tóm lại, như vậy là cuộc chiến đấu anh dũng của quân dân Miền Nam bảo vệ chế độ dân chủ pháp trị Việt Nam Cộng Hòa đã thất bại, song chỉ là thất bại tạm thời, có tính giai đọan. Vì sau đó và cho đến nay, cuộc chiến đấu chống chế độ cộng sản độc tài toàn trị để tái lập chế độ cộng hòa trên cả nuớc vẫn đang tiếp diễn. Đây là giai đọan chống cộng cuối cùng vì dân chủ, cho nền cộng hòa Việt Nam của nguời Việt Quốc gia hay là nguời Việt Nam không cộng sản trong cũng như ngòai nuớc. Thực tế đã và đang ngày một khẳng định chính nghĩa “Cộng Hòa”(Chủ quyền quốc gia thuộc về toàn dân) tất thắng ngụy nghĩa “Cộng sản” (Chủ quyền quốc gia thuộc về đảng CSVN)

    Nhân dân Việt Nam nhất định sẽ thiết lập đuợc nền “Đệ Tam Cộng Hòa” trên tòan cõi Việt Nam trong một tương lai không xa, với một Bản Hiến Pháp Cộng Hòa “thể hiện đuợc nguyện vọng của nhân dân (Việt Nam), từ Mũi Cà Mâu đến Ải Nam Quan”, như từng đuợc khẳng định trong lời “Mở Đầu” của bản Hiến Pháp Việt Nam Cộng Hòa tiên khởi ngày 26-10- 1956.

    Năm mươi chín năm qua, mục tiêu chống cộng để thực hiện lý tướng thiết lập cho kỳ được môt chế độ dân chủ cộng hòa trên quê hương đất nước Việt Nam thân yêu của chúng ta vẫn kiên định. Chúng ta tạm thời thất bại trong giai đọan chiến đấu bảo vệ chế độ Việt Nam Cộng Hòa trong cuộc chiến tranh Quốc-Công vừa qua (1954-1975), song không chỉ có niềm tin mãnh liệt mà cả thực tế đã và đang ngày một khẳng định: Chân lý tất thắng, chính nghĩa quốc gia tất thắng ngụy nghĩa cộng sản. Nền cộng hòa nhất định sẽ thay thế nền độc tài chuyên chính cộng sản hiện nay tạiViệt Nam trong tương lai không xa.

    Kỷ niệm 59 năm ngày thành lập nền Cộng Hòa Việt Nam vào thời điểm này, ngòai mục đích tưởng niệm và ghi ơn những người đã có công thiết lập nền cộng hòa Việt Nam, như Cố TổngThống Ngô Đình Diệm và các dân biểu Quốc Hội Lập Hiến đã sọan thảo ra bản Hiến Pháp Việt Nam Công Hòa ngày 26-10-1956, chúng ta còn tưởng nhớ và ghi ơn hai vị Tổng Thống kế nhiệm Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương ( dù các vị Tổng Thống ai cũng có những khiếm khuyết sai lầm về lãnh đạo khi còn tại chúc, song đều một lòng bảo vệ nền Cộng Hòa Việt Nam), cũng như các Tướng lãnh, quân dân cán chính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu hy sinh để bảo vệ nền Cộng Hòa non trẻ ấy. Đồng thời, cũng là dịp nhắc nhở chúng ta về mục tiếu chống cộng để thành đạt lý tưởng xây dựng môt chế độ dân chủ cộng hòa đích thực trên quê hương Việt Nam hậu cộng sản, chứ không nhằm thay thế chế độ độc tài cộng sản bằng một chế độ độc tài không cộng sản.

    Vì thực tế, đã có những biểu hiện cho thấy một số cá nhân và một số chính đảng quốc gia, đòan thể chống cộng ở Hải ngọai nói chung, Houston nói riêng, dường như đã coi nhẹ mục tiêu tối hậu này của sự nghệp chống cộng. Do đó đã có những chủ trương, họat động và cách ứng xử thiếu khôn ngoan, có tính “Độc tài không cộng sản” với những chiến hữu và đồng hương cùng bè quốc gia dân tộc, phái tự do dân chủ cộng hòa, có chung mục tiêu chống cộng với mình, chỉ vì khác quan điểm và phương thức chống cộng. Thực tế điều này đã tác hại rất lớn đến sức mạnh đòan kết, niềm tin tất thắng vào “Chính nghĩa Quốc gia” của quần chúng và các lực lượng lãnh đạo công cuộc chống cộng ở hải ngọai cũng như trong nước. Do đó cần phải được chấn chính kịp thời, nếu chúng ta, những cá nhân hay đòan thể muốn chống cộng vì dân chủ và chống cộng để thắng cộng, chứ không phải chống cộng để lấy tiếng, chống cộng mà chơi, chống cộng chỉ để cho vơi bớt thù hận, dù cộng sản thực tế quả đã gây và để lại quá nhiều thù hận trong lòng mỗi người Việt chúng ta. Nhưng chúng ta không chống cộng vì thù hận mà vì lòng yêu nước muốn đem lại những điều tốt đẹp cho Đất nước, cho tự do, dân chủ và hạnh phúc thật sự của quốc dân Việt Nam thế hệ hiện tại cũng như tương lai trường tồn của Dân Tộc Việt.

    Thiện Ý
    Houston, ngày 26 tháng 10 năm 2015.

  2. Thái tử đảng

    thaitu dang

    Hàng loạt cán bộ trẻ con ông cháu cha diện “Thái tử đảng” được cơ cấu vào cấp uỷ. Lịch sử, chưa thấy thời nào đội ngũ “Thái tử đảng” được cài nhét vào đông đến vậy.

    Nguyễn Xuân Anh, 39 tuổi (con trai cựu Uỷ viên Bộ Chính trị, Chủ nhiệm Uỷ ban kiểm tra trung ương Nguyễn Văn Chi) hôm nay chính thức ngồi ghế Bí thư Đà Nẵng. Nguyễn Bá Cảnh, 32 tuổi (con trai cố Trưởng ban nội chính trung ương Nguyễn Bá Thanh) cũng trúng Ban chấp hành thành uỷ Đà Nẵng.

    Con trai út Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết, 25 tuổi, cũng vừa được bầu vào Ban chấp hành tỉnh uỷ Bình Định. Con trai trưởng của Thủ tướng làNguyễn Thanh Nghị hiện đương Phó Bí thư Kiên Giang, dự kiến sẽ được bầu làm Bí thư trong một hai ngày tới.

    Trước đó, con trai cựu Bí thư Quảng Nam Lê Phước Thanh là Lê Phước Hoài Bảo, 30 tuổi cũng được cất nhắc vào ghế Giám đốc sở Kế hoạch đầu tư, dù tạo nên một làn sóng phản đối đầy tai tiếng nhưng cũng vừa trúng Ban chấp hành tỉnh uỷ.

    Tương tự “cậu ấm” Quảng Nam, con trai cựu Bí thư Hậu Giang Huỳnh Minh Chắc là Huỳnh Thanh Phong, 30 tuổi, cũng đã được cất nhắc vào ghế Giám đốc sở Công thương và vừa trúng Ban chấp hành tỉnh uỷ.

    Tại thành phố Hồ Chí Minh, con trai Uỷ viên Bộ Chính trị, Bí thư Thành uỷ Lê Thanh Hải là Lê Trương Hải Hiếu, 34 tuổi, cũng vừa được bầu vào Ban chấp hành thành uỷ.

    Tại Phú Yên, Đào Bảo Minh, 38 tuổi, con gái cựu Bí thư Đào Tuấn Lộc trúng Ban thường vụ tỉnh uỷ…

    Đấy mới là sơ bộ vài tỉnh thành đợt đầu vừa đại hội xong. Các tỉnh thành, Bộ ngành tiếp theo đại hội sẽ bổ sung tiếp hàng loạt, tôi tin là rất đông những con quan- quan con vào lớp “Thái tử đảng” nhiệm kỳ này.

    Lớp trẻ này, cùng với dàn con ông cháu cha đã được bố trí cơ cấu xong từ nhiệm kỳ trước, tạo nên một đội ngũ “Thái tử đảng” hùng hậu và ken chặt trong hầu khắp các bộ máy từ Ban chấp hành trung ương đảng đến cấp Bộ ngành và Bí thư, Chủ tịch, giám đốc sở ban ngành địa phương.

    –  (Bấm đọc lại bài: Con quan- quan con).

    * * *

    TÀI LIỆU QUAN TRỌNG

    Việt Nam Cộng Hòa – Sau 30 Năm Tị Nạn csVN tại Hải Ngoại
    Việt Nam Cộng Sản – Sau 30 năm Thống Trị Vietnam
    Cộng Sản Việt Nam – Thanh Trừng Nội Bộ
    Đảng CSVN – Bí mật bán Nước cho Trung Cộng
    Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng – Đồng Hóa
    Sách lược : Diệt chủng dân tộc Việt của Trung Cộng
    Tài Liệu : Hủy hoại trí tuệ và Đất Nước
    Trung Quốc : Nắm 137 lô đất Chiến Lược tại Đà Nẵng
    Trung Quốc : Chủ Mưu xây dựng Formosa Thải Độc Diệt Chủng VN
    Liên Hiệp Quốc : Bác bỏ “đường lưỡi bò” Trung Quốc
    Nguyên nhân – Thất thủ Điện Biên Phủ
    Tháng Tư Đen – Bí Mật Vĩ Đại
    Danh sách : Trên 300 Cộng Sản VN có vài trăm triệu USD
    Hàng chục tỷ USD – Tẩu thoát “Ngầm” ra khỏi Việt Nam
    Chỉ thị 45 – CSVN kêu gọi Người Việt hải ngoại xóa bỏ Hận Thù

  3. CHỈ LÀ VẤN ĐỀ THỜI GIAN

    1cauhienluz99

    Chính đề Việt Nam, tác giả Tùng Phong Ngô đình Nhu, phát hành: Nguyễn Kim Vỹ, Nguồn: vnthuquan.net,trang 173-177.

     

    CHỈ LÀ VẤN ĐỀ THỜI GIAN: (Ngô Đình Nhu)Các nhà lãnh đạo miền Bắc, khi tự đặt mình vào sự chi phối của Trung Cộng, đã đặt chúng ta trước một viễn ảnh nô lệ kinh khủng. Hành động của họ, nếu có hiệu quả, chẳng những sẽ tiêu diệt mọi cơ hội phát triển của chúng ta, mà lại còn đe dọa đến sự tồn tại của dân tộc.

    Chúng ta đã thấy, trong một đoạn trên, xã hội của chúng ta ngày nay hoàn toàn vô tổ chức. Sự vô tổ chức đã bắt đầu từ ngày, trong công cuộc Nam tiến, sự chiếm đóng các đất mới đã không được thi hành đúng theo nguyên tắc tổ chức hạ tầng của xã hội chúng ta, lúc nguyên khởi. Các làng mạc ở Nam miền Trung và miền Nam mất dần hình thức chặt chẽ và trù mật cần thiết cho một cuộc sống tập thể. Vì vậy cho nên, cùng với sự mất hình thức trù mật của hạ tầng, tổ chức xã hội hạ tầng cũng mất. Thời kỳ Pháp thống trị đã làm cho sự tan rã đó càng thêm trầm trọng. Đối với nơi nào mà các tổ chức hạ tầng đã hư hỏng thì sự thống trị của Pháp càng làm cho sự hư hỏng tăng thêm nhiều lên. Bởi vì, như chúng ta đã biết, bản chất của nền cai trị thực dân là không thiết gì đến tương lai của dân bị trị.

    Nhưng nhiệm vụ của nó chỉ giữ trị an. Và vì vậy cho nên tổ chức quần chúng của chúng ta đối với người Pháp, là không quan hệ, ngược lại, nó còn là một trở lực cho công cuộc trị an. Người Pháp chỉ chú trọng đến một bộ máy hành chính chuyên giữ trị an để phục vụ quyền lợi kinh tế của người thống trị. Và như vậy thì sự giữ cho dân chúng sống rời rạc là một yếu tố quyết định cho sự thành công của chính sách thực dân.
    Đối với những vùng mà tổ chức hạ tầng của chúng ta còn tương đối chặt chẽ, như ở miền Trung và miền Bắc, thì người Pháp cũng đã làm vỡ tung các tổ chức xã hội hạ tầng của chúng ta. Trước hết, họ đã mang vào nước chúng ta một hệ thống kinh tế, mà tầm hoạt động bao trùm hết lãnh thổ Đông Dương thuộc quyền của họ, để thay thế một hệ thống kinh tế đặt trên căn bản tổ chức làng mạc xa của chúng ta. Kế đó là sự đặt ra chính sách thuế vụ trực tiếp với người dân để thay thế cho chính sách thuế vụ cũ đặt qua trung gian làng mạc, kể như là những đơn vị xã hội, sau gia đình
    Dù mà các tổ chức hạ tầng của chúng ta có bền chặt đến đâu, những biện pháp trên cũng làm vỡ tung ra được.
    Hậu quả của những sự kiện trên, là sự vô tổ chức của xã hội chúng ta ngày nay. Nếu những tín hiệu tập hợp của chúng ta còn nguyên giá trị, thì ảnh hưởng của sự vô tổ chức này sẽ bớt tai hại. Nhưng chính tín hiệu tập hợp của chúng ta lại cũng mất đi vì thời gian thống trị của thực dân Pháp.
    Vì vậy cho nên, sự vô tổ chức ngày nay là một tình trạng không thể nào để vậy được nếu chúng ta muốn dẫn dắt cộng đồng dân tộc vào con đường thực hiện những công trình vĩ đại như công cuộc phát triển mà chúng ta phải đạt cho kỳ được trong giai đoạn này.
    Trình độ vô tổ chức.
    Chúng ta phải ý thức rằng, sự vô tổ chức của xã hội chúng ta ngày nay ở vào một trình độ rất trầm trọng. Bởi vì chúng ta đã loại trừ chủ nghĩa Cộng Sản, thì đương nhiên, khi nhận xét rằng xã hội chúng ta vô tổ chức, chúng ta không hề lấy sự quân đội hóa quần chúng trong xã hội Cộng Sản làm tiêu chuẩn. Nhưng, sự kiện mà chúng ta muốn nêu lên, là chính những tổ chức quần chúng của các quốc gia Tây phương, đặt sự tôn trọng tự do cá nhân làm một nghiêm luật của văn minh, chúng ta cũng không có.
    Giả sử có ba nhóm người, một nhóm người của chế độ Cộng Sản, một nhóm của chế độ tự do Tây phơng và một nhóm người Việt Nam. Cả ba nhóm đều đứng trước một thử thách chung: phải vượt qua một đoạn đường dài có nhiều trở lực thiên nhiên bất ngờ, để di chuyển từ một địa điểm A đến một địa điểm B. Hành động của ba nhóm người sẽ ra sao?
    Trước hết, trong nhóm người của chế độ Cộng Sản, theo lệnh của người chỉ huy, tất cả đều vào hàng ngũ đã có của mình. Có từng đội nhỏ, dưới sự chỉ huy nghiêm khắc của một đội trưởng. Tất cả các đội họp lại thành đoàn, đặt dới quyền của một người chỉ huy. Các đội trưởng, súng cầm tay, đạn chuẩn bị, lúc nào cũng sẵn sàng nổ súng, mọi người đều khiếp sợ và nghiêm chỉnh thi hành thượng lệnh. Lãnh tụ giải thích rằng, vì quyền lợi của giai cấp vô sản, Đảng và lãnh tụ nhận định sự di chuyển cần phải được thực hiện theo một lộ trình duy nhất mà lãnh tụ đã biết. Tất cả đều vừa đồng loạt hoan hô vừa nhìn nòng súng sâu thẳm đang chĩa vào người.
    Và cả nhóm tiến lên theo nhịp chân đi của quân đội. Dọc đường gặp trở lực thiên nhiên, cả nhóm người, vì lãnh tụ đã có chủ địnhvà áp lực của nòng súng, vẫn tiến tới để ngã lần vì kiệt sức và trở lực không vượt nổi. Cuối cùng, nhóm người, sau khi tiêu hao sinh lực, phải dừng lại đợi thượng lệnh thay đổi lộ trình. Lệnh xuống, mọi người lại vừa nhìn nòng súng, vừa hoan hô và tất cả lại lên đường theo một lộ trình mới, dẫn dắt đến một trở lực mới. Phong trào nhân dân công xã của Trung Cộng cũng thể hiện trường hợp trên đây.
    Nhóm người của khối tự do sẽ thực hiện cuộc di chuyển một cách khác. Những người này tự chia làm những nhóm nhỏ. Mỗi nhóm không có người chỉ huy, Những có một người được nhóm giao cho trách nhiệm phối hợp các ý kiến chung về cuộc hành trình. Các người trách nhiệm lại hợp nhau, phối hợp hướng đi và tốc độ của các nhóm, để cho sự vận chuyển của toàn thể được điều hòa dưới sự trách nhiệm của một người mà phần đông đều đồng ý trao cho nhiệm vụ lãnh đạo. Theo lệnh của người này, tất cả đều lên đường, mỗi người tuy không thấu triệt những ý thức lý do hành động của cộng đồng và lộ trình trong hiện tại, mặc dầu không có hoan hô rầm rộ, nhưng có sự cương quyết tiến tới và sự nhận thức các trở lực thiên nhiên đang đợi chờ. Dọc đường gặp trở lực thiên nhiên, nhờ không có một chủ định cứng rắn về lộ trình, tất cả đều ngừng lại và lấy kỹ thuật khoa học nhận định thực tế để tìm cách vượt qua. Nhờ vậy mà Tây phơng đã tìm được giải pháp cho các vấn đề xã hội cuối thế kỷ 19.
    Sau cùng, nhóm người Việt Nam, sẽ thực hiện cuộc hành trình như sau. Một người đứng lên, với sự ủng hộ của một vài người khác, giải thích sự cần thiết của cuộc di chuyển và đề nghị một lộ trình. Những người chung quanh, kẻ đứng người ngồi, có người lắng tai nghe, có người đang tính việc riêng, có người đang giải trí, có người đang làm việc. Nhìn chung, một cảnh tượng vô cùng hỗn loạn. Lúc người chỉ huy ra lệnh, một số bước lên đường, nhưng tốc độ không đều, người mau, người chậm. Số còn lại ngồi ngơ ngác không biết phải làm gì. Đi một đỗi, số người đi trước phải trở lại tìm cách thuyết phục những người chưa quyết định. Dằng co, đi, ở không ngã ngũ. Thời giờ qua mà cuộc hành trình chưa bắt đầu, chỉ vì nhóm người của chúng ta chẳng có tổ chức. Do đó, chúng ta bất lực khi cần phải thực hiện một công cuộc cần có sự góp phần của toàn thể cộng đồng.
    Tác dụng của tổ chức quần chúng.
    Sự thể đã như vậy, nếu chúng ta muốn thực hiện một công trình của tập thể, điều trước tiên, mà chúng ta phải làm, là tổ chức quần chúng của chúng ta.
    Nhưng vấn đề quan hệ hơn nữa là bởi vì nếu chúng ta không tổ chức quần chúng của chúng ta, cố nhiên chúng ta không thực hiện được những công cuộc mà chúng ta trù tính.
    Nhưng tình thế không phải chỉ đến đó mà thôi, bởi vì, nếu chúng ta không dẫn dắt được đoàn người trên thực hiện cuộc hành trình dự tính, thì người khác sẽ đến tổ chức họ và dẫn dắt họ đi. Trong giai đoạn hiện tại của quốc gia, nếu chúng ta không tổ chức được quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của cộng đồng thì các nhà lãnh đạo Cộng Sản sẽ tổ chức quần chúng và giải quyết các vấn đề hiện tại của cộng đồng theo quan điểm Cộng Sản. Nhưng chúng ta đã biết giải pháp Cộng Sản sẽ di hại nh thế nào cho dân tộc.
    Trong thực tế, các nhà lãnh đạo Cộng Sản Bắc Việt, thừa hưởng sự nghiệp nghiên cứu của Cộng Sản quốc tế, đã ý thức sự kiện trên, nên từ lâu đã chú trọng rất nhiều đến việc tổ chức quần chúng. Và chính sức mạnh của họ lâu nay nằm ở chỗ kỹ thuật tổ chức quần chúng, của Cộng Sản Quốc Tế, được đặc biệt nghiên cứu và áp dụng. Và một khi đã tổ chức được quần chúng rồi thì họ lại nắm được trong tay một lợi khí sắc bén mà chúng ta chưa có.
    Do đó, sự tổ chức quần chúng, đối với chúng ta là một yếu tố vô cùng cần thiết, chẳng những để thực hiện bất cứ công cuộc nào của cộng đồng, trong đó công cuộc phát triển là quan hệ nhất, mà đồng thời lại là một lợi khí để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền Bắc, đang hoạt động tại miền Nam.
    Một lần nữa, chúng ta phải nhận thức rõ ràng rằng một bộ máy hành chính, dù có tinh vi đến đâu, một mình cũng không đủ để giải quyết các vấn đề hiện tại của dân tộc. Bởi vì một bộ máy hành chính không, không có một bộ máy tổ chức quần chúng, sẽ không huy động được toàn dân. Sở dĩ có quan niệm sai lầm về vai trò tự mãn của bộ máy hành chính là vì ký ức của thời kỳ Pháp thuộc còn rất mới. Và trong thời kỳ này, thật sự bộ máy hành chính của Pháp rất là hiệu quả. Những lúc bấy giờ những mục tiêu của người Pháp không phải là những mục tiêu của chúng ta hiện nay. Hai điều này chúng ta đã thấy rõ ở một đoạn trên.
    Sau hết, lý do quan hệ nhất để chứng minh tính cách thiết yếu của sự tổ chức quần chúng, chính là công cuộc Tây phương hóa mà chúng ta phải thực hiện cho kỳ được.
    Trong một đoạn ở trên, chúng ta đã thấy rằng công cuộc Tây phương hóa phải toàn diện, nghĩa là phải được thực hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống, và phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân. Nếu công cuộc Tây phương hóa chi giới hạn trong một nhóm người lãnh đạo, như trường hợp đã xảy ra cho một số quốc gia ở Cận Đông, thì sớm hay muộn quần chúng sẽ ly khai với nhóm người lãnh đạo và tình trạng xã hội sẽ chín mùi cho một cuộc cách mạng lật đổ những người lãnh đạo đã Tây phương hóa. Một công cuộc Tây phương hóa nếu muốn có kết quả mong mỏi thì phải ăn sâu và lan rộng trong nhân dân.
    Một công cuộc Tây phương hóa ăn sâu và lan rộng trong nhân dân, có nghĩa là người chủ trương công cuộc Tây phương hóa phải làm thế nào để cho quần chúng, từ thành thị đến thôn quê, chấp nhận nhiều tập quán mới, theo một lối sống mới và hoạt động theo những tiêu chuẩn mới.
    Một công cuộc vĩ đại như vậy không thể do một bộ máy hành chính, dù có tinh vi đến đâu, cũng không thể chỉ một mình, thực hiện được. Và một công cuộc vĩ đại như vậy, nếu không có sự tham gia thật sự của quần chúng, sẽ thất bại chắc chắn vì lực lượng thụ động của khối người đã quen sống theo những nề nếp mà công cuộc Tây phương hóa đặt cho mình, không chịu thay đổi.
    Đã như thế thì, thực hiện công cuộc Tây phương hóa có nghĩa là trước hết phải hướng dẫn nhân dân ý thức tính cách cần thiết của công cuộc Tây phương hóa và làm thế nào để Tây phương hóa. Sau đó phải dẫn dắt nhân dân đến chỗ hợp tác, với các nhà lãnh đạo, để thực hiện những công tác cần thiết cho công cuộc Tây phương hóa.
    Và những hoạt động có tính cách ăn sâu và lan rộng trong quần chúng như trên, không thể thực hiện được trong tình trạng vô tổ chức của nhân dân ngày nay, trong xã hội của chúng ta. Điều kiện thiết yếu và tiên quyết cho những hoạt động trên là sự tổ chức quần chúng. Và xuyên qua các tổ chức quần chúng đó, những hoạt động trên mới có thể nảy nở đợc và mới có thể đưa quần chúng đến sự hợp tác, trong công cuộc Tây phơng hóa, với các nhà lãnh đạo.
    Tóm lại, các đoạn trên đây, chúng ta nhận thức:
    Trong tình trạng bình thường, các tổ chức quần chúng đã là một yếu tố thiết yếu cho đời sống của một quốc gia độc lập.
    Trong một tình trạng quyết liệt như tình trạng hiện nay, của các quốc gia đang tìm phát triển như chúng ta, các tổ chức quần chúng là một yếu tố còn thiết yếu hơn nữa cho đời sống của quốc gia.
    Trong hiện tại chính trị của miền Nam ngày nay, sự tổ chức quần chúng lại là một khí giới để chặn đứng các sự phá hoại của du kích quân miền Bắc. Nhưng quần chúng của chúng ta hiện nay hoàn toàn không có tổ chức. Chúng ta quen sống trong một tình trạng hỗn loạn mà chúng ta lầm cho đó là một tình trạng tự do. Thật sự, trở lại vấn đề thăng bằng động tiến cần thiết cho mọi cộng đồng giữa quyền lợi cá nhân và quyền lợi cộng đồng, xã hội của chúng ta ngày nay là một xã hội sắp mất thăng bằng nói trên, và chúng ta đang sống trong một hoàn cảnh mà quyền lợi của cộng đồng bị hy sinh cho quyền lợi của cá nhân. Do đó, sự tổ chức quần chúng và các tổ chức quần chúng, đối với chúng ta, trở thành một yếu tố quyết định cho sự mất còn của cộng đồng.
    Tùng Phong
  4. Pingback: Danh sách Con Ông Cháu Cha “khủng” ở Việt Nam « ghequaconloc

  5. Pingback: Danh sách Con Ông Cháu Cha “khủng” ở Việt Nam | MY VIETNAM

Leave a Reply

Fill in your details below or click an icon to log in:

WordPress.com Logo

You are commenting using your WordPress.com account. Log Out /  Change )

Twitter picture

You are commenting using your Twitter account. Log Out /  Change )

Facebook photo

You are commenting using your Facebook account. Log Out /  Change )

Connecting to %s