CSVN tham nhũng kinh khũng như vầy mà quý vị còn nói chuyện chống tham nhũng. Hãy xem lại những số tiền khổng lố của những tên quan chức CSVN. Làm sao chống tham nhũng khi CSVN là những tên tham nhũng chưa từng thấy trong lịch sữ.
Phan Văn Khải và con trai trên 2 tỷ USD
Nguyễn Thị Xuân Mỹ : Chủ Tịch Ủy Ban Trung Ương Kiểm Soát 417 triệu USD
Thích Trí Tịnh : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch, TW GHP 250 triệu USD
Lê Đức Anh : Cựu Chủ tịch nhà nước CSVN 2 tỷ 215 triệu USD
Trần Đức Lương : Chủ tịch nhà nước 2 tỷ 100 triệu USD
Đỗ Mười : Cựu Tổng Bí Thư CSVN 1 tỷ 90 triệu USD
Nguyễn Tiến Dũng : Đệ nhát Phó Thủ Tướng 1 tỷ 780 triệu USD
Nguyễn Văn An : Chủ tịch Ban Chấp Hành Trương Đảng CSVN 1 tỷ 70 triệu USD
Lê Khả Phiêu: Cựu Tổng Bí Thư Đảng 1 tỷ 430 triệu USD
Nguyễn Mạnh Cầm : Phó Thủ Tướng 1 tỷ 350 triệu USD
Võ Văn Kiệt : Cựu Tổng Bí Thư Đảng 1 tỷ 15 triệu USD
Nông Đức Mạnh : Chủ Tịch Quốc Hội 1 tỷ 143 triệu USD
Phạm Thế Duyệt : Uỷ viên Thường vụ Thường trực TW Đảng 1 tỷ 773 triệu USD
Trần Ngọc Liễng : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 900 triệu USD
Hoàng Xuân Sính : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 784 triệu USD
Lý Ngọc Minh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 750 triệu USD
Nguyễn Đình Ngộ : Chủ tịch UBMTTQ 656 triệu USD
Võ Thị Thắng : Phó Chủ tịch Trung ương HLHPN 654 triệu USD
Ma Ha Thông : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 590 triệu USD
Nguyễn Đức Triều : Chủ tịch TW Hội Nông dân VN 590 triệu USD
Trần Văn Quang : Chủ tịch Hội Cựu chiến binh VN 587 triệu USD
Nguyễn Đức Bình : Giám Đốc Viện Quốc Gia TPHCM 540 triệu USD
Vương Đình Ái : Phó Chủ tịch Uỷ ban ĐKCĐVN 512 triệu USD
Hoàng Thái : Thường trực Đoàn Chủ tịch 500 triệu USD
Nguyễn Thị Nữ : Chủ tịch UBTW MTTQVN 500 triệu USD
Nguyễn Tiến Võ : Uỷ viên UBTW MTTQVN 469 triệu USD
Nguyễn Văn Huyền : Nhân sĩ thành phố HCM 469 triệu USD
Nguyễn Xuân Oánh : Kinh tế Thành phố HCM 469 triệu USD
Phạm Thị Trân Châu : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 469 triệu USD
Thích Thiện Duyên : Giáo hội Phật giáo QN ĐN 469 triệu USD
YA Đúc : uỷ viên UBTW MTTQVN 469 triệu USD
Hà Học Trạc : Chủ tịch UBTW MTTQVN 400 triệu USD
Hoàng Quang Đạo : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh 390 triệu USD
Lê Hai : Tổng cục chính trị QĐNDVN 390 triệu USD
Lê Truyền : Uỷ viên Ban Thường trực 390 triệu USD
Lý Quý Dương : Dân Tộc Dao tỉnh Hà Giang 390 triệu USD
Phạm văn Kiết : Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc 390 triệu USD
Vương Đình Bích : Uỷ viên UBTW MTTQVN 390 triệu USD
Trần Đông Phong : Thường trực UBTƯMTTQVN 387 triệu USD
Trần Văn Đăng : Uỷ viên TƯ Đảng,Tổng Thư ký 364 triệu USD
Hoàng Đình Cầu : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
Lý Chánh Trung : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
Ngô Bá Thành : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 300 triệu USD
Trương Thị Mai : Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam 300 triệu USD
Hồ Đức Việt : Bí Thư thứ nhất TW Đoàn TNCS 287 triệu USD
Lâm Công Định : Uỷ viên UBTW MTTQVN 287 triệu USD
Ngô Gia Hy : Uỷ viên UBTW MTTQVN 287 triệu USD
Trần Văn Chương : Chủ tịch Hội người Viẹt Nam 287 triệu USD
Trương Văn Thọ : Bác sỹ, dân tộc Chăm 287 triệu USD
Đỗ Duy Thường : Vụ Trưởng vụ Dân chủ pháp luật 280 triệu USD
Đỗ Tấn Sỹ : Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp 280 triệu USD
Lê Văn Triết : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 280 triệu USD
Lương Tấn Thành : Giáo Sư Bệnh viện Bạch Mai 280 triệu USD
Nguyễn Phúc Tuần : Uỷ viên UBTW MTTQVN 280 triệu USD
Phạm Thị Sơn : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 280 triệu USD
Lê Bạch Lan : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 269 triệu USD
Nguyễn Văn Vi : Uỷ viên UBMTTW 269 triệu USD
Trần Thoại Duy Bảo : Uỷ viên UBTW MTTQVN 269 triệu USD
Vũ Oanh Lão : thành cách mạng 269 triệu USD
Nguyễn Thị Nguyệt : Cao đài Ban Chỉnh tỉnh Bến Tre 264 triệ USD
Bùi Thái Kỷ : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh 257 triệu USD
Hoàng Hồng : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 257 triệu USD
Lưu Văn Đạt : Tổng Thư ký Hội Luật gia Việt Nam 257 triệu USD
Nguyễn Công Danh : T P. Hồ Chí Minh 257 triệu USD
Nguyễn Túc : Uỷ viên Ban Thường trực 257 triệu USD
Nguyễn Văn Bích : Uỷ Ban Kế hoạch Nhà Nước 257 triệu USD
Hoàng Việt Dũng : Giám đốc Công ty TNHH 256 triệu USD
Phan Quang : Hội nhà báo Việt Nam, Uỷ viên UBMT 256 triệu USD
Vưu Khải Thành : Tổng công ty hữu hạn BITIS 256 triệu USD
Cao Xuân Phổ : Viện Đông Nam á 254 triệu USD
Chu Văn Chuẩn : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 254 triệu USD
Đăng Thị Lợi : Chủ tịch Hội Thân nhân Việt kiều 254 triệu USD
Hoàng Văn Thượng : Đại tá, Anh hùng quân đội 254 triệu USD
Lê Quang Đạo : Trung ương Mặt trận Tổ quốc N 254 triệu USD
Lợi Hồng Sơn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 254 triệu USD
Lý Chánh Trung : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 254 triệu USD
Ngô Ngọc Bỉnh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
Nguyễn Kha : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
Nguyễn Văn Hạnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 254 triệu USD
Nguyễn Văn Vĩnh : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 254 triệu USD
Đinh Thuyên : Chủ tịch hội người mù Việt Nam 250 triệu USD
Đoàn Thị ánh Tuyết : Thượng tá, Anh hùng quân đội 250 triệu USD
Lê Thành : Phó Chủ tịch Thường trực 250 triệu USD
Mùa A Sấu : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 250 triệu USD
Trần Kim Thạch : Uỷ viên UBTW MTTQVN 250 triệu USD
Lê Ngọc Quán : Mặt trận Tổ quốc tỉnh Vĩnh Phú 249 triệu USD
Nguyễn Quang Tạo : Chủ tịch liên hiệp các hội hoà bình 249 triệu USD
Nguyễn Văn Thạnh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 249 triệu USD
Thào A Tráng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 249 triệu USD
Trần Khắc Minh : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 229 triệu USD
Lê Minh Hiền : Thường trực UBTƯMTTQVN 215 triệu USD
Hà Thị Liên : Thường trực UBTƯMTTQVN 214 triệu USD
Ama Bhiăng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Âuu Quang Cảnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
Bế Viết Đẳng : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
Đàm Trung Đồn : Đại học Tổng hợp Hà Nội 200 triệu USD
Đặng Đình Tứ : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Đặng Ngọc Bân : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Đinh Công Đoàn : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Đinh Gia Khánh : Viện Văn học dân gian 200 triệu USD
Hà Phú An : Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Hoàng Đức Hỷ : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Lâm Bá Châu : Chủ tịch Hội người Việt Nam tại Pháp 200 triệu USD
Lê Văn Tiếu : Việt kiều tại CHLB Đức 200 triệu USD
Lương Văn Hận : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Nguyễn Văn Tư : Chủ tịch Hội Công Thương 200 triệu USD
Phùng Thị Hải : Giám đốc Công ty TNHH Thuỷ Sản 200 triệu USD
Rơ Ô Cheo : Dân tôc Gia Lai tỉnh Gia Lai 200 triệu USD
Sầm Nga Di : Dân tộc Thái, tỉnh Nghệ An 200 triệu USD
Thích Đức Phương : Thừa Thiên Huế 200 triệu USD
Thích nữ Ngoạt Liên : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
Trần Hậu : TWMTTQVN Trưởng Ban Nghiên 200 triệu USD
Triệu Thuỷ Tiên : Dân tộc Nùng 200 triệu USD
Trương Nghiệp Vũ : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 200 triệu USD
Trương Quốc Mạo : Chủ tịch Hội nông dân 200 triệu USD
Ung Ngọc Ky : Uỷ viên uỷ ban TWMTTQ 200 triệu USD
Vũ Đình Bách : Uỷ viên UBTW MTTQVN 200 triệu USD
Mong Văn Nghệ : Dân tộc Khơ mú tỉnh Nghệ An 197 triệu USD
Đinh Xông : Dân tộc Hrê tỉnh Quãng Ngãi 190 triệu USD
Lê Công Tâm : Phó Chủ tịch Thường trực 190 triệu USD
Mấu Thị Bích Phanh : Dân tộc Raklây tỉnh Ninh Thuận 190 triệu USD
Nguyễn Ngọc Minh : Uỷ viên UBMTTQ tỉnh Huế 190 triệu USD
Phan Hữu Phục : Cao đài Tiên thiên 190 triệu USD
Trần Thế Tục : Uỷ viên UBTW MTTQVN 190 triệu USD
Hoàng Mạnh Bảo : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 187 triệu USD
Nguyễn Thị Ngọc Trâm : Uỷ viên UBTW MTTQVN 187 triệu USD
Phạm Hồng Sơn : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 187 triệu USD
Phan Hữu Lập : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 187 triệu USD
Thái Văn Năm : Phật giáo Hoà hảo 187 triệu USD
Trần Văn Tấn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 187 triệu USD
Vi Văn ỏm : Dân tộc Xi mun tỉnh Sơn La, 187 triệu USD
Bùi Thị Lập : Uỷ viên UBTW MTTQVN 184 triệu USD
Kpa Đài : Uỷ viên UBTW MTTQVN 184 triệu USD
Lê Văn Hữu : Mặt trận Tổ quốc tỉnh Phú Yên 184 triệu USD
Nông Quốc Chấn : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 184 triệu USD
Phạm Khiêm Ich : Viên Thông tin KHXH 184 triệu USD
Phạm Thanh Ba : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 184 triệu USD
Từ Tân Vũ : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 184 triệu USD
Viễn Phương : Nhà thơ Uỷ viên UBMTTQ 184 triệu USD
Nguyễn Ngọc Thạch : Tổng Biên Tập Báo Đại Đoàn kết 180 triệu USD
Trương Hán Minh : Người Hoa TP. Hồ Chí MInh 180 triệu USD
Bùi Xướng : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 157 triệu USD
Trần Đình Phùng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt 157 triệu USD
Hồ Ngọc Nhuận : Uỷ viên UBTW MTTQVN 156 triệu USD
Phan Huy Lê : Uỷ viên UBTW MTTQVN 156 triệu USD
Nguyễn Thống : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 154 triệu USD
Trần Minh Sơn : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 154 triệu USD
Vũ Duy Thái : Giám đốc xí nghiệp trách nhiệm hữu hạn 154 triệu USD
Chu Phạm Ngọc Sơn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
Đỗ Hoàng Thiệu : Đà Nẵng Ngân Hàng tỉnh QN ĐN 150 triệu USD
Dương Nhơn : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
Huỳnh Cương : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
Mai Thế Nguyên : Kiến trúc sư trưởng tại Na Uy 150 triệu USD
Ngô Minh Thưởng : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 150 triệu USD
Nguyễn Ngọc Sương : Đại học Tổng hợp Thành phố 150 triệu USD
Nguyễn Văn Diệu : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 150 triệu USD
Phạm Ngọc Hùng : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
Thượng thơ Thanh : HT Cao đài Toà Thánh Tây Ninh 150 triệu USD
Trần Đức Tăng : Phối sư Hội thánh Cđ Minh Chơn đạo 150 triệu USD
Trần Phước Đường : Uỷ viên UBTW MTTQVN 150 triệu USD
Lê Đắc Thuận : Giám đốc điều hành Cty VANOCO 107 triệu USD
Nguyễn Đức Thành : Chủ tịch Ban điều hành CLB 107 triệu USD
Trần Mạnh Sang : Uỷ viên UBTW MTTQVN 107 triệu USD
Amí Luộc : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
Bùi Thị Lạng : Thành phố Hồ Chí Minh. 100 triệu USD
Danh Nhưỡng Dân tộc Khơ me 100 triệu USD
Đào Văn Tý : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
Đồng Văn Chè : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 100 triệu USD
Hà Den : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
Hồ Phi Phục : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
Hoàng Kim Phúc : Tổng Hội trưởng Hội Thánh tin lành 100 triệu USD
Kim Cương Tử : UBTW MTTQV 100 triệu USD
Lê Ca Vinh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
Lý Lý Phà : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
Nguyễn Hữu Hạnh : Nhân sỹ Thành phố 100 triệu USD
Nguyễn Lân : Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 100 triệu USD
Nguyễn Lân Dũng : Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội 100 triệu USD
Nguyễn Minh Biện : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 100 triệu USD
Nguyễn Phước Đại : Luật sư TP. Hồ Chí Minh 100 triệu USD
Nguyễn Tấn Đạt : Phật giáo Hoà hảo tỉnh An Giang 100 triệu USD
Nguyễn Thành Vĩnh : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
Nguyễn Thị Liên : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
Nguyễn Thiên Tích : Chủ tịch hội y học cổ truyền VN 100 triệu USD
Nông Thái Nghiệp :Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 100 triệu USD
Phùng Thị Nhạn : Nghệ sỹ nhân dân Thành phố HCM 100 triệu USD
Sùng Đại Dùng : Chủ tịch Uỷ ban MTTQVN 100 triệu USD
Trương Quang Đạt : Dân tộc Sán Dìu tỉnh Vĩnh Phú 100 triệu USD
Tương Lai : Uỷ viên UBTW MTTQVN 100 triệu USD
Vũ Mạnh Kha : Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Hà Nội 100 triệu USD
Hà Thái Bình : Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc 56 triệu USD
Nguyễn Văn Đệ : Thượng tá, kỹ sư thuộc Bộ Quốc Phòng 56 triệu USD
Trần Bá Hoành : Uỷ viên UBTW MTTQVN 56 triệu USD
Võ Đình Cường : Uỷ viên UBTQ MTTQVN 56 triệu USD
Cù Huy Cận : Chủ tịch Hội Văn học nghệ thuật VN 50 triệu USD
Lê Khắc Bình : Chủ tịch, Uỷ viên Đoàn Chủ tịch 50 triệu USD
Huỳnh Thanh Phương : ủy Quân sự thành phố Cần Thơ 32 triệu USD
Hồ Xuân Long : Dân tộc Vân kiều, Quãng Trị 15 triệu USD
Một tài liệu cũ trong báo Quốc gia, Montreal, Canada từ tháng 2/1996 trích tin Nữu Ước cho biết :
“ Một thành viên cao cấp của Hội đồng mậu dịch Việt – Mỹ tiết lộ đảng CSVN được xem là một tỉ phú hàng đầu của thế giới vào năm 1995 với tài sản ước lượng lên đến 20 tỉ đôla…VN hiện nay có khoảng từ 80 đến 100 người có tài sản trên 300 triệu đô la, tất cả các tỉ phú này đều là cán bộ cao cấp của đảng.
“Ông John Shapiro, một cựu chiến binh Hoa kỳ sau 3 tuần lễ thăm VN để tính chuyện làm ăn buôn bán, phát biểu rằng các ông lớn trong đảng gồm các thành viên bộ chính trị, các bộ trưởng và thứ trưởng, ít nhất mỗi người có vợ hay con làm chủ một công ty. Theo ông J Shapiro, do việc chính phủ cho phép các công ty được chuyển ngân ra nước ngoài lên đến 500000 đô la, số ngoại tệ trong nước bắt đầu vơi đi.
“Vẫn theo ông Shapiro, có khoảng 700 đảng viên CSVN có tài sản từ 100 đến 300 triệu đô la. Đây là con số do một nhân vật cao cấp của ngân hàng trung ương cung cấp cho ông. Những đảng viên có tài sản từ 50 đến 100 triệu đô la khoảng 2000 người…Tất cả những con số về tài sản của đảng CSVN là do những chuyên viên thống kê của cơ quan mậu dịch quốc tế. Số tài sản lớn lao trên do thân nhân của đảng viên cao cấp ở nước ngoài làm sở hữu chủ. Ông Shapiro cũng nêu lên nhiều thí dụ điển hình như vợ bé của tổng cục phản gián làm ăn rất lớn ở Âu châu, em ruột của trung tướng VC, tổng cục phó tổng cục phản gián đang kinh doanh rất lớn ở Nam Cali, vợ con của Giám đốc tổng cục kinh tế và thân nhân của Đỗ Mười thủ đắc những tài sản nhiều triệu đô la ở Vancouver, Canada và cả ở New York, Houston. Trong niên khóa 94-95, hàng trăm du học sinh là con cái đảng viên tự túc. Niên khóa 95-96, con số này tăng lên gấp 3…”
Một tài liệu khác trong website mà tôi tạm dịch là mạng điểm ( cf. địa điểm, thời điểm) Hận Nam Quan tháng 5/2002 tựa là “ Giai cấp mới trong các chế độ CS “ cho biết :
“Theo tin của hãng thông tấn Reuter đánh đi từ Hà nội ngày 4 tháng 3 năm 2002 thì ĐCSVN sau khóa họp TƯ Đảng từ 18-2-đến 2-3-2002 đã chính thức ban hành một chính sách mới về kinh tế rất táo bạo: Đảng viên CS được phép làm kinh doanh tư nhân. Phạm Chi Lan, Phó Chủ tịch Phòng Thương mại và kỹ nghệ tuyên bố với phóng viên của hãng thông tấn Reuter rằng:”… Đại hội đã quyết định là các đảng viên đang quản trị các xí nghiệp tư nhân có quyền ở lại trong Đảng”.
“Thật ra thì từ nhiều năm nay, các đảng viên cao cấp tuy không chính thức sở hữu một xí nghiệp tư nào cả nhưng thân nhân bà con của họ đã là chủ nhân của những xí nghiệp tư lớn nhất trong nước.
“Cứ hỏi vợ con các ông Phan văn Khải, Võ văn Kiệt, Đỗ Mười, Phạm Thế Duyệt, Trần Đức Lương, Nguyễn Tấn Dũng…là sẽ biết ai là chủ nhân của các sân golf, các khách sạn hạng sang, hãng xe taxi, hãng hàng không, nhà máy chế biến hải sản, hãng xuất nhập cảng, siêu thị lớn nhất nước.
“Ai mà không thấy sự giàu có hiển nhiên của giới lãnh đạo CS tại VN. Họ xây nhà lầu, xài tiền như nước, xuất ngoại như đi chợ, chi tiêu một lúc hàng bó đô la tiền mặt. Giới tư bản đỏ nhờ phù phép XHCN đã biến tài sản của quốc gia thành tư sản một cách thần tình, biển thủ công quỹ, buôn lậu hàng quốc cấm thế mà cứ hò hét diệt tham nhũng đến cùng.
“Theo tài liệu FYI ( Poliburos network) ngày 19/12/2000 thì các cán bộ và nhân viên cao cấp của nhà nước CS Hà nội hiện làm chủ những số tiền to lớn gửi tại các ngân hàng ngoại quốc cộng với những bất động sản tọa lạc trong nước.
– Lê Khả Phiêu : cựu tổng bí thư ĐCSVN và gia đình có 5 khách sạn (2 ở Hànội và 3 ở Saigon), tài sản và tiền mặt trị giá 1 tỉ 170 triệu Mỹ kim (US$ 1.170.000.000)
– Trần Đức Lương: Chủ tịch nước CHXHCNVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 137 triệu MK
– Phan Văn Khải: Thủ tướng chính phủ, gia đình có 6 khách sạn ở Saigon, tài sản 1 tỉ 200 triệu MK.
– Nguyễn Tấn Dũng: Đệ 1 Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 480 triệu MK
– Nguyễn Mạnh Cầm: Phó Thủ tướng, tài sản 1 tỉ 150 triệu MK
– Phạm Thế Duyệt: Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, tài sản 1 tỉ 173 triệu MK
– Tướng Phạm Văn Trà : Bộ trưởng Quốc Phòng, tài sản gồm có 10 tấn vàng và tiền mặt 1 tỉ 360 triệu MK.
– Trương tấn Sang: Chủ tịch Ủy ban Kinh tế TƯ Đảng CSVN, tài sản và tiền mặt 1 tỉ 124 triệu MK
Ngoài ra, còn một số cán bộ và công chức có 1 tỉ và trên 100 triệu MK trong danh sách liệt kê của bảng FYI này là hơn 20 người nữa.
Gần đây nhất, theo điện thư Câu lạc bộ dân chủ số 39 tháng 2/2005 trong mạng điểm Y kiến thì:
“Một nguồn tin tuyệt mật đã được tiết lộ mới đây từ một quan chức cao cấp Bộ Công an cho biết số tiền khổng lồ mà các quan chức cao cấp VN gửi tại ngân hàng Thụy sĩ. Đáng chú ý là:
Cựu Chủ tịch nước Lê Đức Anh hơn 2 tỉ USD cộng 7 tấn vàng;
Cựu Tổng Bí thư Đỗ Mười 2 tỉ USD;
Đương kim Bộ trưởng Quốc Phòng Phạm văn Trà 2 tỉ USD cộng 3 tấn vàng;
Cựu Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu 500 triệu USD;
Đương kim Chủ tịch nước Trần Đức Lương 2 tỉ USD;
Đương kim Thủ tướng Phan văn Khải hơn 2 tỉ USD;
Đương kim Phó Thủ tướng thường trực Nguyễn tấn Dũng hơn 1 tỉ USD;
Đương kim Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh 1,3 tỉ USD;
Đương kim chủ tịch Quốc hội Nguyễn văn An hơn 1 tỉ USD;
Cựu phó ủy ban thể dục thể thao Quốc gia Lương quốc Đống 500 triệu USD;
Cựu Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn mạnh Cầm hơn 1 tỉ USD;
Cựu Thứ trưởng thường trực Bộ Thương mại Mai văn Dậu hơn 1 tỉ USD.
Ngoài ra, nguồn tin cũng cho biết một danh sách dài các quan chức có số tiền gửi hàng trăm triệu USD…”
Tôi phải đưa ra 3 nguồn khác nhau để anh và các bạn trong nước thấy, báo chí trong nước nếu biết cũng không dám đăng vì toàn là “bí mật quốc gia”, internet thì không phải ai cũng có để coi, lại bị tường lửa ngăn chặn hay bị theo dõi khi dùng máy điện toán công cộng.
http://www.thienlyb uutoa.org/ Misc/NguoiLinhGi a.htm
http://minht. free.fr/tham% 20nhung%20001/ mat%20tran/ no%20le%20che% 20do%20001. html
Quan chức cao cấp của chế độ CSVN gởi tiền ở ngoại quốc
Sunday, September 11, 2005
* CSVN ra luật chống rửa tiền nhưng …
GENEVA 11-9 (NV) – Một số cán bộ được tin cậy của đám quan chức cao cấp của chế độ Hà Nội đã được giao cho nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị các tài sản khổng lồ của họ có được nhờ tham nhũng hối lộ gửi tại các ngân hàng ngoại quốc. Một nhân vật (yêu cầu dấu tên) từng giao tiếp với một số người này ở một số ngân hàng Thụy Sĩ tiết lộ như vậy trong một cuộc tiếp xúc với báo Người Việt mới đây.
“Chưa kể tại ngân hàng các nước khác ở Âu Châu và Á Châu, riêng tại Thụy Sĩ, tôi biết có hai người ở các ngân hàng thành phố Lausane và hai người ở thành phố Geneva, làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản do xếp của họ gửi.” Nhân vật trên tiết lộ.
Lương bổng của đám quan chức cao cấp của đảng và nhà nước CSVN, theo sự mô tả của một viên chức ngoại giao Tây Phương thì “không đủ để họ sống 10 ngày”, nhưng họ có tiền phải gửi, hay nói đúng hơn, giấu đút, ở các ngân hàng ngoại quốc là một điều hiển nhiên bất bình thường. Cho tới nay, lương căn bản của cán bộ đảng viên CSVN chỉ có 290,000 (tương đương khoảng $18 đô la) rồi nhân theo chỉ số cao thấp tùy chức vụ, cấp bậc. Nhưng có lần Vũ Khoan, phó thủ tướng CSVN, khi thăm một xí nghiệp quốc doanh đã so sánh và thấy một viên chức nhà nước chức vụ rất cao như ông còn kém lương của một người thợ chuyên môn. Ðiều này cho thấy lương bổng cán bộ công chức CSVN, dù là quan chức cao cấp, cũng không là bao nhiêu và không đủ sống.
Theo lời nhân vật trên tiết lộ, mỗi một số viên chức cao cấp của chế độ đều sử dụng một số thuộc cấp tín cẩn vào công việc chuyển ra ngoại quốc số tài sản khổng lồ mà họ vơ vét được qua các “phi vụ” tham nhũng hối lộ.
Số tiền họ gửi mỗi lần khoảng bao nhiêu, cách bao lâu gửi một lần, các cán bộ có trách nhiệm chuyển đô la và vàng dưới nhiều hình thức khác nhau đến các ngân hàng ngoại quốc, không tiết lộ. Nhưng nếu đó không phải là các số tiền lớn bạc triệu đô la thì người ta không cần đến người chuyên trách “chuyển khoản” cũng như quản trị xuất nhập các số tiền này, ông nói.
“Họ luôn luôn có trách nhiệm đi đi về về”, ông tiết lộ tiếp. “Giữa không những Việt Nam và Châu Âu mà còn cả từ Việt Nam đến một số ngân hàng ở Á Châu cũng như cả Nga và Ðông Âu.”
Tại sao đám quan chức CSVN lại đem tiền gửi cả tại nước Nga là nước có hệ thống ngân hàng thuộc loại bấp bênh nhất trên thế giới?
“Họ gửi tiền cả ở ngân hàng Nga vì tin tưởng nguyên tắc khôn ngoan này: Không bao giờ bỏ tất cả các quả trứng vào chung một giỏ.” Ông giải thích rằng nếu một quả trứng chẳng may bị vỡ, có thể những quả trứng khác vỡ theo. Ðây là sự khôn ngoan chung của đám quan chức cao cấp của chế độ khi họ rải số tiền kiếm chác được ra nhiều nơi trên thế giới. Theo ông, có rất nhiều người khác nhau làm nhiệm vụ chuyển tiền và quản trị tài sản của “xếp” ở ngoại quốc. Nhưng cũng có những người là vợ, con, hay thân quyến của đám cán bộ đảng viên tham nhũng đóng vai trò giấu đút tiền tham nhũng hối lộ khi họ đi ra ngoại quốc.
Tờ Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn viết một bài có tính cách “mách bảo” cho cán bộ đảng viên tham nhũng trong nước cách thức gửi tiền ở hệ thống ngân hàng Thụy Sĩ với tựa đề “Gửi tiền ở nhà băng Thụy Sĩ”. Bài báo này được báo điện tử VNExpress lấy lại và phổ biến ngày Thứ Bảy 10-9-2005 mở đầu với câu hỏi “Có thể mở tài khoản ẩn danh – anonymous account – ở ngân hàng Thụy Sĩ không?” Bài báo này giải thích khá tỉ mỉ về thế nào là tài khoản ẩn danh dưới hình thức “tài khoản mang số nào đó thay vì mang tên khách hàng.” Và “tài khoản số hạn chế sự hiểu biết về chủ nhân của nó…” Bài báo phục vụ loại độc giả nào, khách hàng ngân hàng nào ở trong nước, người ta có thể hình dung ra ngay khi mà lợi tức trung bình đầu người chỉ có khoảng $500 đô la một năm.
Ngày 8-6-2005, CSVN theo áp lực của Hoa Kỳ khi lôi kéo Hà Nội hợp tác đối phó với khủng bố, rửa tiền ma túy, buôn lậu trên thế giới, ra nghị định số 74/CP để chống rửa tiền. Nghị định này buộc “Các ngân hàng, các định chế tài chính phải báo cáo về các giao dịch trong một ngày của một cá nhân hay một tổ chức có tổng trị giá từ 200 triệu đồng (khoảng $12,400 đô la) trở lên.” Theo sự tường thuật trên báo Tuổi Trẻ ngày 9-6-2005. Tờ báo này kể tiếp rằng: “Tuy nhiên, các qui định có tác động lớn nhất là các ngân hàng buộc phải báo cáo về những khách hàng có lượng tiền gửi tiết kiệm tại ngân hàng từ 500 triệu đồng (khoảng $31,000 đô la) trở lên tại một ngân hàng. Lượng tiền 500 triệu đồng là tổng các khoản tiền gửi của cá nhân đó chứ không phải là một lần gửi tiết kiệm có trị giá 500 triệu đồng.”
Nhân vật trên kể cho hay, cách đây mấy năm, ông chánh văn phòng của Hội đồng Bộ Trưởng Chính phủ CSVN có lần đã thua bạc tại một casino ở Geneva “mấy trăm ngàn đô la trong một đêm”. Ðiều này, số tiền tham nhũng hối lộ mà đám quan chức CSVN giấu đút ở ngoại quốc phải “vô cùng lớn.”
Khóa họp Quốc hội CSVN hồi tháng Tư vừa qua, một dự thảo luật chống tham nhũng được bàn cãi nhưng rồi vẫn không có biểu quyết và được loan báo sẽ thảo luận trở lại vào khóa họp thứ hai của năm nay dự trù vào tháng 11 tới. Hàng năm, các khóa họp quốc hội Hà Nội đều có thảo luận chuyện chống tham nhũng và họ nhìn nhận tham nhũng đã trở thành “quốc nạn”.
Nguyễn đình Lộc, đại biểu quốc hội và nguyên là Bộ trưởng Tư Pháp CSVN nói với báo chí trong nước rằng tham nhũng chỉ bị lộ diện khi “nội bộ tham nhũng” tố cáo lẫn nhau. Trong một cuộc điều trần trước quốc hội, Phan văn Khải, thủ tướng Hà Nội, nhìn nhận tham nhũng đã “xà xẻo” khoảng 30% các dự án xây dựng, phát triển. Phần lớn các dự án này được tài trợ từ các khoản tín dụng ngoại quốc. Các nhà tài trợ quốc tế đã cam kết viện trợ, tài trợ cho các dự án phát triển, xóa đói giảm nghèo cho Việt Nam năm 2005 là $3.4 tỉ đô la. (NT)
Bài Đọc Quan Tâm
– Danh Sách Chế Tài Magnitsky – Đợt 1 & 2
– 30.4.1975 – Ngày Tự Thú của csVN
– 30.4.1975 – Ngày Hận Thù của csVN
– VNCH – Sau 30 năm tị nạn csVN
– Chiến tranh nam bắc Mỹ
– Ngô Đình – Hiểm Họa Xâm Lăng
– Hồ Chí Minh – Tên Diệt Chủng thế kỷ 20
– TT Phạm Văn Đồng – Tù Cải Tạo 30.4.1975
– Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng
– Hòa Giải – Hòa Hợp – Dân Tộc
– Thanh Trừng – Nội Bộ Đảng csVN
– Sách lược – Tàu Cộng diệt chủng tộc Việt
– Những tên bán nước vĩ đại
Danh Sách Đề Nghị Chế Tài Theo Luật Magnitsky Toàn Cầu – Đợt 1
Thông Báo của BPSOS
Washington DC, ngày 3 tháng 4, 2017
http://machsongmedia.com
Để mở đầu cuộc tổng vận động Quốc Hội và Hành Pháp Hoa Kỳ năm 2017, hôm nay chúng tôi công bố hồ sơ Số 1 trong tổng cộng 6 hồ sơ đã được hoàn tất với danh sách 168 giới chức chính quyền Việt Nam được đề nghị chế tài theo Luật Magnitsky Toàn Cầu của Hoa Kỳ.
Hồ sơ Số 1 gồm 25 nhân vật liên can đến các hành vi tra tấn đối với Mục Sư Nguyễn Công Chính và vợ là Bà Trần Thị Hồng. Một số nhân vật điển hình gồm:
Trang đầu của hồ sơ Ms. Nguyễn Công Chính và Bà Trần Thị Hồng
BPSOS chọn 6 hồ sơ cho cuộc vận động năm 2017 dựa trên các tiêu chuẩn sau:
(1) Sự đàn áp nghiêm trọng vì xảy ra hành vi tra tấn hay đánh chết người.
(2) Nạn nhân là những người tranh đấu cho nhân quyền.
(3) Hồ sơ khả tín vì đã được quốc tế, nhất là chính quyền Hoa Kỳ, công nhận.
(4) Vấn đề trách nhiệm có thể truy cứu đến những giới chức chính quyền.
Cả 6 hồ sơ đã được nộp cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ và Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế ngày 17 tháng 3, 2017. Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế chính thức chọn hồ sơ Số 1, tức hồ sơ về Mục Sư Nguyễn Công Chính và Bà Trần Thị Hồng, cho Đề Án Tù Nhân Lương Tâm Tôn Giáo. Đề án này là nỗ lực của Uỷ Hội để cung cấp dữ kiện cho Hành Pháp Hoa Kỳ trong việc đưa một số quốc gia, trong đó có Việt Nam, vào danh sách Quốc Gia Phải Quan Tâm Đặc Biệt (CPC).
Uỷ Hội sẽ công bố đề án này tại buổi họp báo ngày 6 tháng 4. Buổi họp báo sẽ được thực hiện ở Quốc Hội Hoa Kỳ với sự yểm trợ của Bàn Tròn Đa Tôn Giáo Hoa Kỳ, mà BPSOS là một thành phần tham gia từ nhiều năm qua. Tại buổi họp báo, một số tổ chức xã hội dân sự và tôn giáo ở Việt Nam đã và đang lên tiếng cho hồ sơ của Mục Sư Nguyễn Công Chính và Bà Trần Thị Hồng sẽ được tuyên danh.
Đề án này của Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế và cuộc vận động chế tài theo Luật Magnitsky Toàn Cầu của BPSOS là hai nỗ lực song song có phối hợp. Chỉ định CPC theo Luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế có tác dụng chế tài tập thể đối với cả một chính quyền; cùng lúc, BPSOS khai thác Luật Magnitsky Toàn Cầu để chế tài từng cá nhân giới chức chính quyền liên can đến hành vi đàn áp nhân quyền một cách trầm trọng. Các biện pháp chế tài bao gồm cấm thủ phạm nhập cảnh và đóng băng tài sản ở Hoa Kỳ của họ.
“Riêng trong trường hợp đàn áp tôn giáo, như hồ sơ của Ms. Nguyễn Công Chính và Bà Trần Thị Hồng, thì không chỉ thủ phạm bị cấm nhập cảnh mà cả vợ, chồng, con đều bị cấm nhập cảnh Hoa Kỳ”, Ts. Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, nói. “Nếu những người này đang ở Hoa Kỳ thì sẽ bị trục xuất.”
Sự nới rộng thành phần bị cấm nhập cảnh này là do tác động của Luật Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế kết hợp với Luật Magnitsky Toàn Cầu.
Ngày 31 tháng 3 vừa qua, Ts. Nguyễn Đình Thắng và cựu Đại Sứ Grover Joseph Rees cùng đại diện cho BPSOS đến họp với Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế về kế hoạch phối hợp hành động.
“Trong những tháng sắp đến chúng tôi sẽ tuần tự công bố các danh sách kế tiếp, vào những thời điểm phù hợp,” Ts. Thắng cho biết. “Và chúng tôi đang thu thập thêm những hồ sơ mới để ngày càng tăng ảnh hưởng cho cuộc vận động chế tài các thủ phạm đàn áp nhân quyền ở Việt Nam.”
Để tham gia buổi họp báo ngày 6 tháng 4 ở Quốc Hội Hoa Kỳ, xin liên lạc:
Giới truyền thông: media@uscirf.gov or 202-786-0615 (Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế)
Cá nhân hay hội đoàn: greg@themitchellfirm.com (Bàn Tròn Đa Tôn Giáo Hoa Kỳ)
Ts. Nguyễn Đình Thắng và cựu Đại Sứ Grover Joseph Rees cùng với cựu Đại Sứ Jackie Wolcott, Uỷ Viên của Uỷ Hội Hoa Kỳ về Tự Do Tôn Giáo Quốc Tế, 31/03/2017 (ảnh USCIRF)
nguon
Công bố danh sách chế tài theo luật Magnitsky – Đợt 2
Danh sách đề nghị chế tài đợt 2 theo Luật Magnisky toàn cầu được tổ chức BPSOS ở Hoa Kỳ công bố hôm 27 tháng 4.
Danh sách đợt 2 gồm 21 nhân vật, trong đó có 19 giới chức chính quyền cấp thành phố, huyện và phường liên quan đến vụ cưỡng chế đất của người dân Cồn Dầu, Đà Nẵng.
Danh sách này thuộc bộ hồ sơ số 4 trong tổng cộng 6 bộ hồ sơ đã nộp cho Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ từ cuối tháng 2 vừa qua.
Các hành vi đàn áp nhân quyền trong hồ sơ Cồn Dầu được nêu ra là tra tấn và đánh chết người. Sự việc xảy ra từ năm 2010.
Trong hồ sơ có tên ông cựu bí thư thành phố Đà Nẵng Nguyễn Bá Thanh, lúc đó kiêm chủ tịch Hội Đồng Nhân dân Thành phố Đà Nẵng, tuy đã qua đời, nhưng vẫn bị nêu tên trong hồ sơ vì là tâm điểm của mạng lưới liên can đến nhân quyền và tham nhũng. Ông Thanh được cho là người chủ chốt đứng đằng sau kế hoạch vụ Cồn Dầu.
Cũng liên quan đến đất đai Cồn Dầu, vào ngày 24 tháng 4 vừa qua, UBND Thành phố Đà Nẵng có buổi đối thoại trực tiếp với các hộ dân ở giáo xứ Cồn Dầu về phương án tái định cư của Thành phố Đà Nẵng.
Báo Tuổi Trẻ đưa tin cho biết chỉ có 3 trong số 87 hộ tham dự đối thoại.
Báo trích dẫn lời ông Hồ Kỳ Minh, Phó chủ tịch UBND TP Đà Nẵng cho biết sẽ trực tiếp giải quyết các thư khiếu kiện của những hộ gia đình ở giáo xứ Cồn Dầu chưa đồng tình với phương án tái định cư thuộc dự án khu đô thị sinh thái ven xông Hoà Xuân.
Theo trình bày của ông Minh, thành phố đang có những chính sách ưu tiên sớm thực hiện đối với những hộ có khiếu nại đề nghị được tái định cư gần nhà thờ Cồn Dầu.
Một phương án hoán đổi ưu tiên được ông Minh đưa ra là chủ hộ sẽ chuyển nhượng cho Công ty cổ phần Tập đoàn Mặt Trời 1 lô đất họ nhận được tại khu tái định cư để đổi lấy 1 lô đất gần nhà thờ.
___________________________
Mạch Sống, ngày 27 tháng 4, 2017
nguon
http://machsongmedia.com
Hôm nay BPSOS công bố danh sách đợt 2, gồm 21 nhân vật, trong đó có 19 giới chức chính quyền cấp thành phố, huyện và phường liên quan đến vụ cướp đất của người dân ở thôn Cồn Dầu, Thành Phố Đà Nẵng mà đã kéo dài từ năm 2010 đến nay. Danh sách còn có 2 người không thuộc chính quyền nhưng liên quan mật thiết đến vụ cướp đất lớn này.
Danh sách Cồn Dầu thuộc bộ hồ sơ Số 4 trong tổng cộng 6 bộ hồ sơ mà BPSOS đã nộp cho Bộ Ngoại Giao Hoa Kỳ từ cuối tháng 2 và đang được 20 tổ chức nhân quyền Hoa Kỳ và quốc tế xem xét để cùng vận động cho việc chế tài theo Luật Magnitsky Toàn Cầu.
“Hồ sơ này đặc biệt ở chỗ nó liên quan đến cả 2 thành phần đối tượng của Luật Magnistky Toàn Cầu: đàn áp nhân quyền nghiêm trọng và tham nhũng lớn,” Ts Nguyễn Đình Thắng, Tổng Giám Đốc kiêm Chủ Tịch BPSOS, nhận định.
Các hành vi đàn áp nhân quyền nghiêm trọng trong hồ sơ Cồn Dầu gồm có tra tấn và đánh chết người.
Ngày 4 tháng 5, 2010 Ông Trần Văn Minh, lúc ấy là Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân TP Đà Nẵng, đã trực tiếp chỉ huy cuộc tấn công của nhiều trăm công an, cảnh sát cơ động và côn đồ nhắm vào đoàn người tiễn quan tài của cụ bà Maria Đặng Thị Tân, 93 tuổi, đến nơi an nghỉ cuối cùng. Trên 100 giáo dân đưa tang đã bị đánh đập dã man, trong đó có 2 phụ nữ đã bị sẩy thai. Sau đó 62 người đã bị đưa về đồn công an. Công an đã tra tấn họ liên tục trong nhiều ngày để ép cung.
Công an tiếp tục lùng bắt những giáo dân Cồn Dầu bị tình nghi đóng vai trò chủ chốt trong việc chống lại chính sách cướp đất. Một thanh niên khoẻ mạnh, Nguyễn Thành Nam, đã bị tra tấn nhiều lần và lần cuối thì Ông đã chết do chấn thương. Tháng 10, 2010, 6 giáo dân Cồn Dầu bị tuyên án tù.
Người chủ chốt đằng sau kế hoạch cướp đất Cồn Dầu là Ông Nguyễn Bá Thanh, lúc ấy là Bí Thư Thành Uỷ kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng. Dù bị nhiều lần cáo buộc về tham nhũng, Ông Thanh vẫn không bị điều tra và xử lý. Không những vậy, Ông Thanh đã được điều ra Hà Nội làm Trưởng Ban Nội Chính Trung Ương của Đảng Cộng Sản với chức năng chống tham nhũng.
“Theo góp ý của luật sư mà chúng tôi tham khảo, dù đã qua đời Ông ấy vẫn cần bị nêu tên trong danh sách vì là tâm điểm của mạng lưới những thủ phạm liên can trong hồ sơ đàn áp nhân quyền và tham nhũng này,” Ts. Thắng giải thích.
Đến nay Luật Magnitsky Toàn Cầu chưa thực sự hiệu lực vì các cơ quan chấp pháp chưa hoàn tất thủ tục và thể thức để thực thi luật.
“Dù vậy, chúng tôi vẫn lần lượt công bố các danh sách đề nghị chế tài để chứng tỏ rằng chúng tôi đã sẵn sàng”, Ts. Thắng nói.
Giải thích về lý do công bố hồ sơ đợt 2 vào ngày hôm nay, Ts. Thắng cho biết cuối tháng tư là thời điểm mà Luật Magnitsky Toàn Cầu đòi hỏi Tổng Thống nộp bản báo cáo đầu tiên về thực thi luật cho Quốc Hội.
Đáp ứng đòi hỏi này, ngày 20 tháng 4 vừa qua Tổng Thống Donald Trump gửi văn thư cho Quốc Hội để khẳng định “sự ủng hộ của Hành Pháp của tôi cho đạo luật quan trọng này và nói rõ về cam kết của chúng tôi đối với việc chấp pháp mạnh mẽ và đầy đủ.”
Văn thư giải thích thêm, “Hành Pháp của tôi đang tích cực nhận diện các cá nhân và thực thể mà Luật có thể áp dụng và đang thu thập chứng cớ cần thiết để áp dụng nó.”
Sau lần báo cáo đầu tiên này, hàng năm Tổng Thống Hoa Kỳ phải nộp bản phúc trình cho Quốc Hội vào dịp Ngày Quốc Tế Nhân Quyền, tức ngày 10 tháng 12. Bản phúc trình kế tiếp sẽ là ngày 10 tháng 12, 2017. Cuộc vận động chung của khoảng 20 tổ chức nhân quyền Hoa Kỳ và quốc tế, trong đó có BPSOS, nhắm vào thời điểm này.
Hiệp Hội Giáo Dân Cồn Dầu, đã cộng tác với BPSOS trong chiến dịch Cứu Cồn Dầu từ năm 2010, cho biết là hồ sơ dùng để vận động chế tài theo Luật Magnitsky Toàn Cầu cũng đã được chuyển cho một số tổ hợp luật sư để khai thác Tu Chính Án Hickenlooper (22 U.S. Code § 2370) trong Luật Ngoại Viện năm 1961, Luật Mậu Dịch năm 1974, Luật Miễn Truy Tố Chính Quyền Ngoại Quốc năm 1976, và Luật Bảo Vệ Nạn Nhân Tra Tấn năm 1972. Các luật này cho phép công dân hay cư dân Hoa Kỳ kiện chính quyền ngoại quốc trong các vụ soán đoạt tài sản với mục đích thương mại và và cá nhân các giới chức chính quyền ngoại quốc can dự vào các hành vi tra tấn.
Tổng Thống Trump đã nhận lời tham gia Hội Nghị Thượng Đỉnh APEC 2017 sẽ diễn ra giữa tháng 11 này tại khu nghỉ mát InterContinental của Sun Group ở TP Đà Nẵng. Sun Group là chủ đầu tư của khu du lịch sinh thái Hòa Xuân, trong đó có giáo xứ Cồn Dầu. Công ty này đồng loã với chính quyền Đã Nẵng để cướp đất của các giáo dân Cồn Dầu rồi chia lô bán lẻ cho các chủ đầu tư. Tổng trị giá của các lô đất này lên đến 1.2 tỉ Mỹ kim.
“Chúng tôi đã báo động với Hành Pháp Hoa Kỳ về điều này,” Ts. Thắng cho biết.
***
Danh sách đợt 2 đề nghị chế tài theo Luật Magnitsky Toàn Cầu:
(1) Ông Nguyễn Bá Thanh (sinh ngày 18 tháng 4, 1953, lìa đời ngày 13 tháng 2, 2015), cố Ủy viên Trung Ương Đảng Cộng Sản Việt Nam, cựu Thành Uỷ kiêm Chủ Tịch Hội Đồng Nhân Dân Thành Phố Đà Nẵng: Được những người “tay trong” mệnh danh là “Ông 10%”, Ông Thanh bị nhiều cáo buộc về tham nhũng mà nổi bật là vụ Cầu Sông Hàn năm 2000. Ông Thanh là người chủ chốt đằng sau chính sách cướp trắng đất của Giáo Xứ Cồn Dầu để giao cho Công Ty Cổ Phần Tập Đoàn Mặt Trời (Sun Group) chia lô bán cho các nhà đầu tư. Trị giá của toàn bộ khu đất này được ước tính là 1.2 tỉ Mỹ kim. Có nghi vấn là, khi còn sống, Ông Thanh đã chuyển một phần tài sản của gia đình sang Hoa Kỳ qua các người con du học và một số thân nhân ở quốc gia này.
(2) Ông Trần Văn Minh (sinh năm 1955), nguyên Chủ Tịch Uỷ Ban Nhân Dân TP Đà Nẵng (2006-2011): Ông Minh là người thực thi chính sách do Ông Thanh đề ra. Ngày 4 tháng 5, 2010 chính Ông Minh đã thiết lập “trung tâm chỉ huy” ở một căn hộ của giáo dân Cồn Dầu để điều động cuộc bố ráp đám tang của cụ bà Maria Đặng Thị Tân. Ông Minh cũng là người ra lệnh cho công an tấn công và bắt người trong ngày này và sau đó để khảo tra và ép họ ký tên chấp nhận giao đất cho Sun Group.
Ông Trần Văn Minh
(3) Ông Võ Văn Thương (sinh năm 1958), nguyên Chủ Tịch UBND Quận Cẩm Lệ (2010-2016), đương kim Bí Thư kiêm Chủ Tịch UBND Huyện Hải Châu, TP Đà Nẵng: Trong vai trò Chủ Tịch UBND Quận Cẩm Lệ, Ông Thương đã ký giấy cưỡng chế đất và nhà của các giáo dân Cồn Dầu để giao cho Sun Group. Ông Thương có mặt trong hầu hết các cuộc họp của chính quyền và giáo dân Cồn Dầu để đe dọa và cưỡng ép họ ký nhận giao đất. Ông là một trong những cán bộ chỉ huy cuộc đàn áp ngày 4 tháng 5, 2010 tại nghĩa trang giáo xứ Cồn Dầu.
Ông Võ Văn Thương
(4) Ông Lê Quang Nam (sinh năm 1970), Giám Đốc Sở Tài Nguyên Môi Trường TP Đà Nẵng (tháng 7, 2016 đến giờ): Trước đó, Ông Nam là Bí Thư Quận Cẩm Lệ, trức tiếp chịu trách nhiệm về chính sách trục xuất và tái định cư các gia đình thuộc Giáo Xứ Cồn Dầu để giao đất cho Sun Group. Trong vai trò Giám Đốc Sở TNMT, Ông Nam chỉ đạo việc phối hợp giữa Công Ty Quản Lý và Khai Thác Đất TP Đà Nẵng trực thuộc Sở TNMT, với Sun Group để chia lô và bán đất Cồn Dầu cho các nhà đầu tư.
Ông Lê Quang Nam
(5) Đại Tá Lê Văn Tam (sinh năm 1959): nguyên phó Giám Đốc Công An TP Đà Nẵng (2009 – 2015), Giám Đốc Công An TP Đà Nẵng (tháng 5, 2015 đến nay). ĐT Tam là công an cao cấp nhất của thành phố Đà Nẵng chỉ huy toàn bộ lực lượng công an trong cuộc tấn công vào đám tang ngày 4 tháng 5, 2010.
Đại Tá Lê Văn Tam
(6) Đại Tá Nguyễn Văn Tiến, nguyên Trưởng Công An Quận Cẩm Lệ (nghỉ hưu cuối năm 2014): ĐT Tiến trực tiếp ra lệnh bắt và tra khảo trên 60 Giáo Dân Cồn Dầu trong ngày 4 tháng 5, 2010. ĐT Tiến có măt tại một số cuộc thẩm vấn nơi xảy ra tra tấn. Ông trực tiếp thẩm vấn một số người bị bắt. Ông cũng là người ra lệnh bắt Nguyễn Thành Năm, một giáo dân Cồn Dầu đã chết vì thương tích do tra tấn gây ra.
Đại Tá Nguyễn Văn Tiến
(7) Đại Tá Trần Mưu (sinh ngày 23 tháng 5, 1962), nguyên Phó Giám Đốc Công An Quận Cẩm Lệ (2009–2015), đương kim Phó Giám Đốc Sở Công An TP Đà Nẵng: Khi còn là Phó Giám Đốc Công An Quận Cẩm Lệ, Trung Tá Mưu trực tiếp điều động công an tấn công các giáo dân Cồn Dầu trong đám tang cụ bà Maria Đặng Thị Tân, gây thương tích cho trên 100 người, trong đó có 2 phụ nữ bị sẩy thai. Trung Tá Mưu trực tiếp điều động việc tra tấn 62 giáo dân Cồn Dầu.
Đại Tá Trần Mưu
(8) Ông Huỳnh Đức Thơ (sinh ngày 10 tháng 4, 1962), Chủ Tịch UBND TP Đà Nẵng (2015 đến giờ), nguyên Phó Chủ TỊch UBNS TP Đà Nẵng (tháng 4, 2014 – tháng 1, 2015), nguyên Giám Đốc Sở Kế Hoạch và Đầu Tư TP Đà Nẵng (tháng 1, 2010 – tháng 4, 2014): Dưới sự chỉ đạo của Ông Thơ, Sở Kế Hoạch và Đầu Tư đã chấp thuận cho Sun Group thực hiện dự án khu đô thị sinh thái trên đất của Giáo Xứ Cồn Dầu. Ông Thơ bị nhiều tố cáo về tham nhũng.
Ông Huỳnh Đức Thơ
(9) Ông Nguyễn Điểu: Nguyên Giám Đốc Sở Tài Nguyên Môi Trường TP Đà Nẵng (về hưu năm 2016): Trong vai trò ấy, Ông Điểu đã “sang tay” đất Cồn Dầu cho Sun Group. Công ty Quản Lý và Khai Thác Đất, trực thuộc Sở TNMT mà Ông là Giám Đốc, là đối tác của Sun Group trong việc chia lô và bán đất Cồn Dầu cho các nhà đầu tư. Ngày 1 tháng 4, 2017 Ông Điểu nhận Huân Chương Lao Động Hạng Nhì của Chủ Tịch Nước Trần Đại Quang.
Ông Nguyễn Điểu
(10) Ông Nguyễn Văn Toàn (sinh năm 1960), Bí Thư kiêm Chủ Tịch UBND Phường Hoà Xuân: Ông Toàn là người trực tiếp điều động việc di dời 1,600 ngôi mộ trong nghĩa trang Cồn Dầu. Ông đã cho lệnh bốc trên 400 ngôi mộ bất chấp sự phản đối của thân nhân của người quá cố để di dời sang nghĩa trang do chính quyền chị định. Không ai có thể phối kiểm xương cốt được cải táng là của thân nhân mình.
Ông Nguyễn Văn Toàn
(11) Ông Lê Viết Lam (sinh năm 1969), Tổng Giám Đốc Sun Group (2007 đến giờ): Ông là chủ đầu tư chính trong dự án Khu Du Lịch Sinh Thái Hoà Xuân, bao gồm 110 mẫu đất của Giáo Xứ Cồn Dầu. Dùng chính quyền Đà Nẵng làm bình phong, Ông Lam là động lực chính đằng sau vụ cướp đất của Giáo Xứ Cồn Dầu để rồi chia lô và bán cho các nhà đầu tư với giá 200 – 300 lần cao hơn mức bồi thường cho khổ chủ. Giá một mét vuông đất ruộng đền bù cho giáo dân Cồn Dầu vào năm 2010 là từ 30 đến 50 ngàn đồng Việt Nam. Giá một mét vuông đất tại Cồn Dầu hiện đang được rao bán trên thị trường từ 8 đến 10 triệu đồng Việt Nam.
Ông Lê Viết Lam
(12)Bà Hồ Thị Nga (sinh năm 1974): Là một giáo dân Cồn Dầu, Bà Nga đã là công cụ đắc lực của chính quyền Quận Cẩm Lệ và TP Đà Nẵng trong việc gạt lấy “sổ đỏ” của trên 100 hộ gia đình giáo dân Cồn Dầu để vay và quịt nợ ngân hàng. Tháng 2 năm 2017, Bà Nga bị bắt về tội lường gạt và bị cáo buộc là đã hối lộ các giới chức các cấp phường, quận và thành phố để ký và chuyển nhượng các “sổ đỏ”.
Bà Hồ Thị Nga
(13) Thượng Tá Lê Viết Hiếu: Thượng Tá Công An Quận Cẩm Lệ, trực tiếp tra tấn nhiều giáo dân Cồn Dầu tại đồn công an.
(14) Thượng Tá Phan Hữu Phùng: Thượng Tá Công An, Trưởng Toán Hình Sự, Quận Cẩm Lệ trực tiếp tra tấn nhiều giáo dân Cồn Dầu tại đồn công an.
(15) Trung Tá Nguyễn Ngọc Tuấn: Trung Tá Công An Quận Cẩm Lệ trực tiếp tra tấn nhiều giáo dân Cồn Dầu tại đồn công an.
(16) Ông Đặng Hồng Phúc: Công an Quận Cẩm Lệ trực tiếp tra tấn nhiều giáo dân Cồn Dầu tại đồn công an.
(17) Trung Tá Tuấn: Trung Tá Công An Quận Cẩm Lệ trực tiếp tra tấn nhiều giáo dân Cồn Dầu tại đồn công an.
(18) Trung Tá Liên: Trung Tá Công An Quận Cẩm Lệ trực tiếp tra tấn nhiều giáo dân Cồn Dầu tại đồn công an.
(19) Trung Tá Thanh: Trung Tá Công An Quận Cẩm Lệ trực tiếp tra tấn nhiều giáo dân Cồn Dầu tại đồn công an.
(20) Bà Tán Thị Thu Dung, chánh án Toà Án Nhân Dân Quận Cẩm Lệ: Tháng 10 năm 2010 Bà Thu Dung đã cản không cho văn phòng Luật Cù Huy Hà Vũ đại diện cho các giáo dân Cồn Dầu bị truy tố. Tại phiên toà ngày 27 tháng 10, 2010, Bà Dung cấm các bị cáo khai sự thật là đã bị công an tra tấn để ép cung. Bà đã xử tù 6 giáo dân Cồn Dầu.
(21) Bà Nguyễn Thị Cảnh, Chánh Án Toà Án Phúc Thẩm Quận Cẩm Lệ: Tại phiên toà phúc thẩm ngày 26 tháng 1, 2011, Bà Cảnh không cho phép bị can phát biểu để tự bào chữa hay tố giác việc công an sử dụng tra tấn để ép cung, và giữ nguyên mức án.
Bài liên quan:
Văn thư của TT Trump gửi Quốc Hội Hoa Kỳ về thực thi Luật Magnitsky Toàn Cầu:
https://www.whitehouse.gov/the-press-office/2017/04/20/letter-president-certain-congressional-committee-chairs
Công Bố Đợt 1 Danh Sách Đề Nghị Chế Tài Theo Luật Magnitsky Toàn Cầu
http://www.machsongmedia.com/vietnam/nhanquyen/1201-2017-04-03-01-58-05.html
BPSOS: Hoàn tất danh sách 168 nhân vật để đề nghị chế tài
http://www.machsongmedia.com/vietnam/nhanquyen/1199-2017-03-22-21-41-32.html
ĐẰNG SAU HIỆP ĐỊNH PARIS, MẬT ƯỚC NIXON & PHẠM VĂN ĐỒNG
….Là một quốc gia có diện tích không nhỏ, dân số cũng đông có hạng và chiếm ngữ một địa thế đắc địa ở Đông nam á thay vì nếu ở xa thằng Tàu thì dân tộc chúng ta đã có được một đời sống tương đối tốt đẹp hơn trăm vạn lần.Đọc xong bài này tôi cứ nghĩ mọi cơ hội tốt đẹp cho VN té ra lại chỉ bị một anh H Kiss xoay như xoay váy, sau khi qua Liên Xô xin họ giảm quân viện cho VN(điều này thực ra LX lại tăng thêm cho HN để dứt điểm Nam Việt), rồi qua Tàu ăn óc khỉ và tay gấu bàn giao Đông Dương và Biển Đông cho Tàu, hắn vào Nam ép TT Thiệu ký văn bản hiệp ước hòa bình vô điều kiện, lại nhãy ra Hà Nội dự ký bản mật ước bồi hoàn sau hậu chiến 4,3 tỹ đô…(B.A.T.)
TT Mỹ NIXON
Tổng Thống thông báo cho Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa những nguyên tắc sẽ chỉ đạo sự tham gia của Hoa Kỳ về việc xây dựng lại sau chiến tranh ở Bắc Việt Nam. Như đã nêu trong Điều 21 của Hiệp Định về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam được ký kết tại Paris ngày 27 tháng giêng năm 1973, Hoa Kỳ thực hiện sự tham gia này theo chính sách truyền thống của mình.
b/ Các yêu cầu của công cuộc xây dựng lại sau chiến tranh trong các lĩnh vực nông nghiệp và công nghiệp của nền kinh tế Bắc Việt Nam.
Bùi Anh Trinh,br />
TT Nixon và TT Thiệu
Hoa Kỳ xúc tiến trùng tu Nghĩa trang Quân đội Biên Hòa?
GNsP (23.11.2015)
– Alan Lowenthal, Ủy ban Đối ngoại, Hạ viện.
1- “Nghĩa trang quân đội Biên Hòa” dính liền với lịch sử của Viêt Nam vì đó là mồ chôn của những quân nhân VNCH trong quá khứ cho nên không thể thay đổi tên, dùng chữ “Nhân dân” của một thời khắc khác (hiện tại) cho nó. Cái tên “Nghĩa Trang Nhân Dân Bình An” thì có dính dáng gì đến quân Lực VNCH đâu ! Không lẽ nghĩa trang cho các tử sĩ của quân đội ngoại quốc (Mỹ) tại các nước (Pháp, Đức chẳng hạn) cũng được chính phủ của nước đó gọi là Nghĩa trang Nhân Dân hay sao ? Ngay cách gọi này cũng cho thấy mưu đồ muốn xóa bỏ vết tích của quá khứ, hoàn toàn đi ngược với ý nghĩa chính thống của một nghĩa trang luôn có mục đích tôn trọng và hoài vọng quá khứ.
Kim Hoa Bà Bà
Ted Osius đã mất chức Đại sứ tại VN rồi . Ông Trump đã cử người khác rồi
Từ toàn quốc kháng chiến tới Điện Biên Phủ
Tình hình sau thế chiến
Ngày 9-3-1945 Nhật đảo chính pháp tại Đông Dương, Đại sứ Nhật yết kiến nhà vua và tuyên bố trao trả độc lập cho Việt Nam . Bảo Đại bèn tuyên bố độc lập ngày 10-3-1945 và gia nhập khối Đại Đông Á, nhà vua ra tuyên ngôn độc lập ngày 11-3-1945. Ông mời Giáo sư Trần Trọng Kim làm Thủ Tướng thành lập nội các ngày 7-4-1945, lấy bài Tiếng Gọi Thanh Niên của Lưu Hữu Phước làm quốc ca, lấy cờ vàng quẻ ly gồm hai vạch liền và một gạch gẫy ở giữa làm quốc kỳ.
Chính phủ Trần Trọng Kim
Ngày 15-8-1945 Nhật đầu hàng Đồng minh, Thủ Tướng Trần Trọng Kim xin từ chức ngày 7-8 vì bất lực, chính phủ không có quân đội. Khi ấy tình hình trong nước rất xáo xộn, Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8, ngày 22-8 họ gửi điện văn vào Huế yêu cầu Bảo Đại thoái vị, họ đã cướp được chính quyền. Các vị triều thần như Thủ Tướng, Tổng Lý Ngự Tiền Văn Phòng cũng khuyên nhà vua thoái vị, vì quá sợ hãi Việt Minh đang bành trướng mạnh lại có vũ trang. Tháng 6 năm 1945 Hồ chí Minh đã được Mỹ thả dù xuống chiến khu cung cấp cho VM nhiều súng đủ các loại để chống Nhật. Chính phủ Trần Trọng Kim không có quân đội nên dù muốn chống lại phong trào cũng khó. Ngày 25-8-1945, nhà vua đọc bản tuyên ngôn thoái vị trước cửa Ngọ môn lâu
Ngày 2-9 Hồ chí Minh đọc tuyên ngôn độc lập.
De Gaulle quyết định tái chiếm Đông dương để đòi lại chủ quyền những nhà máy, đồn điền, cửa hàng, mỏ than… mà Pháp cho là của họ. Tháng 9-1945 Thực dân thành lập Quân đoàn viễn chinh để tái chiếm Đông Dương, họ gặp sự kháng cự mạnh của người Việt và cường độ chiến tranh ngày một gia tăng có thể chia làm 3 giai đoạn (1)
-Chuẩn bị tái chiếm (1945-1946) – Theo dõi tình hình, móc nối Pháp kiều và những thành phần thân Pháp.
-Tái chiếm (1946-1949) – Pháp trở lại Đông Dương sau khi Nhật đầu hàng , đưa quân chiếm lại toàn cõi Đông Dương
-Chiến tranh khốc liệt- (1949-1954) Sau khi chiếm trọn vẹn nước Tầu, Trung Cộng huấn luyện và viện trợ cho Việt Minh nhiều vũ khí, đạn dược khiến tình thế ngày càng bất lợi cho Pháp, họ yếu thế và sa lầy.
Hội nghị Postdam tháng 7-1945 quyết định giao cho quân đội Trung Hoa giải giới Nhật phía trên vĩ tuyến 16, phía dưới thuộc quân Anh
Diễn tiến quân sự
Pháp theo chân quân Anh giải giới Nhật, tới Tân Sơn Nhất với 300 người lính đầu tiên ngày 11-9, sau họ đưa thêm nhiều quân sang chiếm các tỉnh dưới vĩ tuyến 16. Từ giữa tháng 10-1945 tới đầu tháng 2-1946 quân Pháp đã bình định được miền nam, chiếm lại được Vĩnh Long, Cần Thơ, Tây Ninh, Nha Trang, Ban Mê Thuột, Long Xuyên, Châu Đốc, Cà Mâu….
Trong thời gian này họ đã đưa vào 50,000 quân tham chiến, 7,425 xe cộ đủ loại , 21,000 tấn quân nhu, tổng kết Pháp có 630 người chết và mất tích, 1,037 người bị thương (2)
Đầu năm 1946, Pháp bắt đầu thương thuyết với chính phủ Tưởng Giới Thạch tại Trùng Khánh để được thay thế quân Tầu giải giới Nhật. Sau đó thương thuyết với Việt Minh
Đầu tháng 3-1946 Tướng Leclerc cho đổ bộ lên Hải Phòng , ngày 5-3 quân Pháp và Tầu đã chạm súng nhưng sau đó hai bên đã dàn xếp. Việt Minh ký với Pháp Hiệp định sơ bộ thuận cho Pháp vào BV. Họ mượn tay Pháp để đuổi Tầu về nước (3) và củng cố nội bộ, tiêu diệt các đảng phái quốc gia không CS. Theo tờ tường trình của Tướng Leclerc gửi chính phủ Pháp ngày 27-3-1946 thì tính tới cuối năm, VM đã thủ tiêu, giết hại tổng cộng khoảng 50,000 người
Ngày 18-3 Leclerc đưa quân từ Hải phòng lên Hà nội, ngày 27-3 Leclerc thảo tờ trình Chính phủ cho biết 6 tháng qua (9/1945 – 2/1946) có 600 lính Pháp bị giết, 1,000 bị thương. Từ giữa 1945 Việt Minh được Mỹ thả dù cho nhiều súng đạn để chống Nhật. Tháng 9 sau khi đầu hàng, nhiều người Nhật giúp súng đạn và huấn luyện VM chống lại Pháp vì họ cũng là da vàng. Quốc dân đảng Trung hoa không ưa Pháp và bán súng cho VM nên họ cũng thành lập được một lực lượng vũ trang đáng kể.
Theo nhận xét của Henri Navarre, cựu Tư lệnh Đông dương cuộc chiến này bị đối lập tại Pháp chống lại cho là cuộc chiến ô nhục, nhơ bẩn mà chính phủ không dám đặt tên cho nó. Những đợt tiếp viện, tăng quân yếu kém được thực hiện lén lút (4)
Theo tường trình của Leclerc VM được giúp đỡ nhiều, trước đó họ cũng đã được người Trung hoa và các phái bộ Mỹ giúp về quân sự, chính trị. Họ tuyên truyền mạnh và cả hăm dọa nên số người theo rất đông
Từ đầu tháng 4, quân Pháp lần lượt thay thế quân Tầu tại miền Bắc phía trên vĩ tuyến 16. Từ tháng 4 tới tháng 6-1946 Pháp thương thuyết với VM để giải quyết tình hình bằng ngoại giao, chính trị. Hội nghị Đà Lạt ngày 17-4 không có kết quả, Hồ chí Minh cùng Tướng Salan sang Pháp theo lời mời của chính phủ Pháp từ 22-6 tới 27-7-1946. Ngày 6-7 khai mạc Hội nghị Fontainebleau , hai bên căng thẳng, phái đoàn VN bỏ ra về phản đối Pháp không thực lòng
Hồ Chí Minh ở lại ký bản tạm ước với Bộ trưởng Pháp quốc hải ngoại để hoãn binh. Tình hình căng thẳng giữa Việt Minh và Pháp, nhân vụ nổ súng giữa các đơn vị VM và Pháp tại Hải phòng ngày 20-11-1946, thực dân chiếm luôn thành phố này hôm 23-11.
Leclerc từ chức Tư lệnh từ tháng 7-1946 nhưng vì tình hình căng thẳng, chính phủ Pháp cử ông sang Đông Dương điều tra ngày 18-12 nhưng đã quá trễ, hôm sau ngày 19-12-1946 chiến tranh toàn quốc bùng nổ khi VM tấn công quân Pháp tại Hà nội. Tình hình hai bên đã quá căng thẳng từ nhiều ngày trước.
Quân Pháp tại phía trên vĩ tuyến 16 có hơn một sư đoàn không đủ để bình định hết miền Bắc mà chỉ đủ giữ các thành phố. Trong mấy tháng đầu năm 1947 Pháp giải tỏa quốc lộ 5 nối Hà Nội Hải Phòng.
Chiếm Phủ lý 6-1-1947. Từ Đà Nẵng tiến ra Huế giải tỏa đơn vị Pháp bị vây tại đây, chiếm Quảng Trị ngày 18-2, chiếm Đồng Hới đầu tháng 3. Chiếm nhanh chóng mỏ than Hòn Gay. Chiếm các miền Thái thuộc Sơn La Lai Châu.
Đầu tháng 4-1947 tân Cao ủy Bollaert vận động thương thuyết với VM nhưng bất thành và chuyển sang tiếp xúc với Bảo Đại lập chính phủ Quốc gia chống Cộng Sản từ tháng 9-1947. Cựu hoàng ở Hồng kông hướng các hoạt động chính trị về quốc nội.
Tháng 10-1947 Pháp mở cuộc tổng tấn công qui mô lên miền rừng núi Việt Bắc để tiêu diệt chủ lực quân VM tại đây. Họ huy động 20 tiểu đoàn bộ binh và nhẩy dù có chiến xa yểm trợ. Trung Tướng Salan chỉ huy tổng quát chiến dịch: cánh thứ nhất từ Hà nội chiếm Sơn Tây, Hưng Hóa, Phủ Đoan Hùng, cánh thứ hai dọc theo quốc lộ 4 chiếm Thất Khê, Đông Khê. Giữa hai gọng kìm này là những cánh quân nhẩy dù chiếm Cao Bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang ngày 13-10-1947, trong cuộc nhẩy dù xuống Bắc Cạn, Pháp đã bắt hụt Hồ chí Minh. Ngoài ra còn những nỗ lực phụ chiếm Tây Bắc Việt Bắc, chiếm Phong Thổ, Chapa. Cuộc hành quân không tiêu diệt được chủ lực quân VM vì họ né tránh để bảo toàn lực lượng. Sau đó Pháp rút về đồng bằng chỉ để lại quân tại vùng Đông Bắc Việt Bắc tại khu tam giác Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn.
Sang năm 1948, Pháp mở rộng vùng chiếm đóng tại Quảng Yên, Kiến An, Hà Đông, Ninh Bình, chiếm đóng Sơn Tây và Việt Trì. Phía VM mở rộng hoạt động du kích, quấy phá đồn bót, phục kích công voa.
Pháp kiểm soát được Nam việt nhưng vùng Đồng Tháp Mười, U Minh Thượng, U Minh Hạ, Tây bắc Thủ Đầu Một… vẫn thuộc VM. Ngày 1-3- 1948 VM phục kích tiêu diệt đoàn công voa Pháp, tiêu diệt 70 xe gần La Ngà trên Quốc lộ 20. Các tỉnh Quảng Nam , Quảng Ngãi và Bình Định ở trong tay VM vì Pháp không đủ quân số để chiếm toàn thể lãnh thổ
Sang năm 1949 tháng 7 và tháng 8 Pháp mở các cuộc hành quân chiếm Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên; tháng 9 chiếm Phát Diệm và Bùi Chu.
Năm 1950 tình hình biến chuyển mau lẹ, gió đã đổi chiều khi Trung Cộng chiếm trọn vẹn nước Tầu. VM được họ tiếp tế vũ khí đạn dược ồ ạt và huấn luyện tại biên giới. Trung Cộng giúp VM thành lập hai sư đoàn đầu tiên 304, 308 bằng kết hợp các trung đoàn chủ lực tại BV và Trung Việt. VM đã đủ mạnh và bước sang giai đoạn cầm cự , tháng 9-1950 họ mở chiến dịch chiến dịch Lê Hồng Phong vào vùng Tam Đảo, uy hiếp Lào Kay, và mở chiến dịch Hoàng văn Thụ chiếm Đông Khê trên quốc lộ 4 khiến Cao Bằng bị cô lập.
Trước tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers, Tổng tham mưu trưởng quân đội Pháp sang Đông Dương nghiên cứu tình hình. Revers đề nghị với chính phủ cho rút khỏi Cao Bằng và được chấp thuận, đáng lẽ thực hiện sớm cuối năm 1949 nhưng vì để trễ tới cuối năm 1950 nên đã bị thảm bại.
Tháng 10-1950 VM đánh thắng trận lớn đầu tiên mà họ gọi là chiến thắng Cao Bắc Lạng. Tại trận này quân Pháp rút bỏ Cao Bằng bị chận đánh tan nát
Giữa tháng 10-1950 Pháp bỏ Lào Kay rút về Lai châu, bỏ Hòa bình.
Hạ tuần tháng 12-1950 Chính phủ Pháp cử Đại tướng De Lattre de Tassigny sang giữ chức Cao ủy kiêm Tổng Tư lệnh quân đội viễn chinh. Ngay từ giai đoạn này quân số VM đông hơn Pháp tại miền Bắc Pháp có khoảng 23 tiểu đoàn, VM có khoảng 70 tiểu đoàn, miền Trung Pháp 14, VM 18…Tháng 3-1951 De Lattre về Pháp xin tăng viện và được chấp thuận 11tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn thiết giáp, 4 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 1 tiểu đoàn truyền tin (5)
De Lattre là người có quyết định táo bạo tại trận Vĩnh Yên khi cho lệnh ném bom napalm ngay giữa mặt trận, ông quyết định nhanh chóng đã thắng lớn trong trận này. Đầu năm 1952 De Lattre về Pháp chết vì bệnh ung thư.
Tháng 1-1951 VM đã thành lập được 5 sư đoàn bộ binh (304, 308, 312, 316, 320) và một sư đoàn pháo binh (351), họ có 81 tiểu đoàn bộ binh 12 tiểu đoàn pháo binh, 8 tiểu đoàn công binh.
Các trận đánh quan trọng và các chiến dịch lớn gồm:
Trận Cao Bắc Lạng
Từ giữa và cuối 1949, Trung Cộng thắng thế tại Hoa lục, tình hình biến chuyển, chính phủ Pháp cử Tướng Revers sang Đông dương nghiên cứu tình hình, ông đề nghị rút bỏ Cao bằng . Nếu thực hiện cuối 1949 thì thuận lợi nhưng vì để tới gần cuối 1950 mới cho rút nên đã thảm bại. Trận đánh kéo dài từ từ 29-9 tới 7-10-1950, toàn bộ quân Pháp triệt thoái gồm 7,000 người. Đại tá Charton chỉ huy đạo quân rút khỏi Cao Bằng về Đông Khê. Đại tá Lepage chỉ huy một lực lượng khoảng 5 tiểu đoàn để tái chiếm Đông Khê. Cả hai cánh quân bị một lực lượng lớn của VM khoảng 30 tiểu đoàn chận đánh tan nát.
Tổng cộng Pháp mất hai liên đoàn phải bỏ Lạng Sơn. Trận đánh rung động cả nước Pháp, thiệt hại trên 7,000 người vừa bị giết vừa mất tích, mất 13 khẩu đại bác 105 ly, 125 súng cối, gần 500 xe cộ, 3 chi đội thiết giáp, 940 đại liên, 1,200 trung liên và trên 800 súng trường . Số vũ khí này VM có thể trang bị cho 5 trung đoàn bộ binh (6)
Trận Vĩnh Yên từ 13-1-1951 tới 17-1-1951
Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, ngày 7-12-1950 chính phủ Pháp hốt hoảng cử Tướng De Lattre De Tassigny sang Đông Dương vào lúc này người Pháp đang mât tinh thần. Ông vừa làm Cao ủy vừa giữ chức Tư lệnh quân viễn chinh, lần đầu tiên một Tướng lãnh chỉ huy cả dân sự và quân sự. De Lattre tới Đông Dương ngày 17-12-1950 để cứu vãn tình thế và cũng để rửa hận cho trận thảm bại nhục nhã Cao -Bắc- Lạng cách đây hai tháng.
Tân Tư lệnh dám quyết định những việc mà các Tư lệnh trước không ai dám làm như tập trung xử dụng những người dân sự Pháp để đảm nhiệm canh phòng thay thế cho người lính để ra trận (7)
Sau trận đại thắng Cao Bằng mới đây, Việt Minh thừa thắng sông lên đem binh về “lấy nốt Thăng Long”. Ngày 10-1-1951 Võ Nguyên Giáp đưa hai sư đoàn 308, 312 chuẩn bị một cuộc tấn công lớn tại Vĩnh Yên gần Hà Nội và Châu thổ Bắc Việt. Việt Minh giải truyền đơn ní “Bác Hồ về Hà Nội ăn Tết”, tình báo Pháp đã biết VM tập trung quân ở đâu và mục tiêu chọn vào ngày nào.
Lần đầu tiên trong chiến tranh Đông Dương Pháp được đánh một trận diện địa chuẩn bị trước. Võ Nguyên Giáp được cố vấn Tầu dậy cho lối đánh biển người, đẩy thanh niên vào tử địa. Trận đánh diễn ra tại một vùng đồi trọc chiều ngang 12 km, dọc 10 km, phía Bắc tỉnh lỵ Vĩnh Yên. VM tập trung quân tại vùng núi Tam Đảo, lực lượng VM gồm 2 sư đoàn 308, 312; Pháp gồm hai liên đoàn: liên đoàn bắc phi của Đại tá Edon, liên đoàn 3 của Đại tá Vanuxem đóng tại các đồn phía Tây để ngăn chận VM.
Ngày 13-1 Giáp cho tấn công chia cắt hai liên đoàn Pháp, Võ Nguyên Giáp gần hoàn thành lời hứa, Hà Nội mất tinh thần, bao chí Paris đăng tin Hà Nội sắp mất.
De Lattre bèn đích thân chỉ huy trận đánh. Ngày 14-1-1951 ông bay tới Vĩnh Yên, cho trưng dụng tất cả máy bay chở quân trừ bị từ miền nam VN ra Bắc, và cho tiếp tế từ Hà nội, từ miền Bắc. De Lattre lệnh cho hai lữ đoàn chiếm các ngọn đồi phía bắc Vĩnh Yên. Ngày 16-1 lúc 15 giờ Pháp chiếm lại đồi 101, 210, lúc 17 giờ sư đoàn 308 tập trung tấn công mạnh, lần đầu tiên quân Pháp đối diện với trận đánh biển người.
VM xung phong hết lớp này đến lớp khác cùng với yểm trợ của súng cối, hai bên đã trộn trấu. De Lattre có một quyết định thật táo bạo, ông huy động hàng trăm máy bay oanh tạc cơ và vận tải ném bom napalm, đây là trận oanh tạc lớn nhất trong chiến tranh Đông Dương, lửa cháy ngút trời giết hại đối phương và hy sinh cả binh sĩ của Pháp.
Với lối đánh táo bạo, dũng mãnh, De Lattre đánh cho Võ Nguyên Giáp và các cố vấn Tầu tả tơi, VM bị thiệt hại nặng, 6,000 bị giết, bị thương 8,000, 500 bị bắt làm tù binh, Pháp tổn thất một nửa.
VM trộn trấu tưởng là Pháp sẽ không dám pháo hay oanh tạc nhưng không ngờ De Lattre táo bạo, thí quân cả hai bên. De Lattre tung vào trận địa các đơn vị trừ bị trưa 17-1 và cho ném bom napalm đã đẩu lui những đợt tấn công cuối cùng của VM.
De Lattre đã cứu được Vĩnh yên và Hà Nội, ông cho tổ chức duyệt binh để trấn an dân chúng. Sau đó Pháp củng cố phòng thủ chờ VM. De Lattre gấp rút cải tổ quân đội và thành lập nhiều liên đoàn lưu động tại BV để phòng thủ chống VM. (8)
Võ Nguyện Giáp thất bại nặng ở Vĩnh Yên, ngày 23-1 ông ta nhận sai lầm, cũng lên án các chiến binh thiếu can đảm, hèn nhát và ca ngợi dân công đã mang tới mặt trận 5,000 tấn thực phẩm, súng đạn (9)
Trận Mạo khê.
Tháng 3-1951 Tướng Giáp cho mở trận tấn công định chiếm vùng núi Đông triều ở Tây Bắc Hải Phòng. Pháp có ba căn cứ bảo vệ khu quân sự Mạo Khê: Một đồn trên đồi mỏ Mạo Khê, một đơn vị chiên xa đóng tại khu phố Mạo Khê, một đại đội đóng tại nhà thờ Mạo Khê, tổng cộng 400 người.
Phía VM gồm sư đoàn 308, 312, 316, đêm 23-3 VM tấn công hạ 7 đồn dọc theo tỉnh lộ 18. Đêm 26-3 De Lattre tiên đoán VM sẽ tấn công đồn Mạo Khê, ông huy động gửi 3 tiểu đoàn tới, cho hải đoàn xung phong vào sông Bạch đằng yểm trợ hải pháo. Một giờ khuya 27-3 VM pháo kích, tấn công đồn mỏ Mạo Khê, sau nhiều đợt tấn công nhưng binh sĩ trong đồn chống cự và đẩy lui các đợt xung phong.
Mười giờ sáng VM tấn công đồn và cả khu nhà thờ Mạo khê, quân Pháp có máy bay và hải quân yểm trợ nhưng VM rất đông, một máy bay Hellcat bị bắn hạ. Tối 27-3, VM mở cuộc tấn công chót vào đồn và khu phố Mạo khê, phá hủy ba chiến xa Pháp. Sáu giờ sáng VM rút lui và không chiếm được mục tiêu.
VM có 500 người bị giết, Pháp khoảng 200, đây là trận thứ hai của VM đánh vào đồng bằng, De Lattre coi đây là chiến thắng quan trọng.
De Lattre sang Đông dương từ đầu năm 1951 tới nay được gần nửa năm đã phải đương đầu với hai trận lớn của VM. Sau trận thảm bại Cao Bắc Lạng, quân Pháp mất tinh thần nhưng De Lattre với chiến thuật táo bạo, dũng mãnh đã chuyển bại thành thắng nâng cao tinh thần chiến đấu quân sĩ. Ông cho lập phòng tuyến bảo vệ châu thổ BV, chuyển bớt các đơn vị đóng đồn không cần thiết thành những đơn vị lưu động.
Trận Bờ sông Đáy. (10)
Trận qui mô được Tướng Giáp chuẩn bị chu đáo phía VM đưa vào ba sư đoàn 304, 308 và 320, Pháp cũng huy động lực lượng lớn gồm: 3 liên đoàn lưu động, một liên đoàn thiết giáp, hai tiểu đoàn nhẩy dù, 3 hải đoàn, 4 tiểu đoàn pháo, 30 chiến đấu cơ. Một trận đánh kéo dài 26 ngày trên một chiến tuyến dài 80km gồm nhiều giai doạn. Sư đoàn 308 đánh Ninh Bình, sư đoàn 304 đánh Phủ lý, sư đoàn 320 đánh vào giáo khu Phát Diệm phía nam Ninh Bình.
Gồm có 4 trận:
1- Ninh Bình (29-5 tới 30-5)
2- Yên Cư Hạ (4-6 tới 18-6)
3- Phát Diệm (8-6 tới 9-6)
4- Đông bắc Phủ lý (20-6 tới 23-6)
Tại trận Ninh bình VM để lại 350 xác chết , 153 súng trường, 40 tiểu liên, 12 trung liên, 2 đại liên, 9 súng cối. Phía người Pháp chết và bị thương 1,000 người, nhiều đại bác bị phá hủy, các tầu chiến bị hư hại, con trai De Lattre tử trận tại đây.
Trận Yên Cư Hạ từ 4-6 tới 18-6-1951, đây là một đồn kiên cố, xây bằng bê tông, có hàng rào kẽm gai. Tại trận này VM chết 200 người, hai đại đội Pháp giữ đồn chỉ còn vài chục người sống sót.
Trận Phát Diệm từ 8-6 tới 9-6. Sư đoàn 320 vào giáo khu Phát Diệm, uy hiếp tinh thần, phô trương lực lượng.
Trận Đông Bắc Phủ lý từ 20-6 tới 23-6. Trận phản công qui mô của Pháp vào vùng Phủ lý, Ninh bình, VM bị thiệt hại rất nhiều.
Qua các trận đánh thấy VM chưa thể thắng ở đồng bằng nhưng địch đã mạnh hơn trước. Hai bên tổn thất nặng. Pháp huy động nhanh các lực lượng tiếp viện hải, không quân.
Trận Hòa Bình
Tháng 9-1951, De Lattre chuẩn bị đánh Thanh Hóa nhưng đoàn tầu chở quân gặp bão nên phải quay về. De Lattre đổi ý cho đánh chiếm Hòa Bình, ông huy động 15 tiểu đoàn bộ binh, 3 tiểu đoàn nhẩy dù, 2 liên đoàn thiết giáp, 7 tiểu đoàn pháo binh, 2 tiểu đoàn công binh, 2 hải đoàn xung phong . Cuộc hành quân Hòa Bình ngày 9-11-1951 gồm 3 lực lượng và chiếm tỉnh dễ dàng. VM huy động các sư đoàn 304, 308, 312 tới mặt trận.
Đầu tháng 12 VM gây áp lực quanh Hòa Bình qua trận Tu Vũ, Xóm Phèo, họ chiếm được đồn nhưng bị thiệt hại nặng, VM phục kích đoàn tầu trên sông và bộ binh Pháp trên đường số 6, tại trận Xóm Phèo VM thiệt hại nhiều.
Salan thay thế De Lattre cho rút khỏi Hòa Bình, giữ Hòa Bình bất lợi vì địch có cao xạ bắn chính xác những máy bay hạ cánh, phục kích đoàn tầu. Binh lính hay bị sốt rét, chiến trường rừng núi không thích hợp với Pháp. Ngày 22-2-1952 bắt đầu rút để lo bảo vệ đồng bằng, tới 24-2 cuộc triệt thoái coi như chấm dứt.
De Lattre chuyển bại thành thắng, lên tinh thần quyết tâm đánh Hòa Bình nhưng tại rừng núi nhiều bệnh tật, Pháp thua VM tại rừng núi nhưng thắng tại đồng bằng. Lên rừng mất ưu thế không quân, binh sĩ không chịu nổi khí hậu rừng núi. Hòa Bình là một thất bại cho Pháp
Trận Miền Thái từ 11-10-1952 tới 1-12-1952. Xứ Thái gồm Sơn La, Lai Châu. Lực lượng VM tấn công xứ Thái gồm các sư đoàn 308, 312, 316, sư đoàn pháo 351 và các đơn vị công binh. Ngày 17-10 sư đoàn 308 đánh đồn Nghĩa lộ trong đó có 700 quân Pháp, VM pháo dữ dội rồi xung phong chiếm đồn bắt nhiều tù binh. Các đồn ở miền này bị đánh, chiếm, VM làm tan rã hệ thống phòng thủ dọc sông Hồng.
Hành quân Lorraine .
Pháp mở cuộc hành quân Lorraine ngày 29-10-1952 nhằm tấn công các tuyến giao thông, cơ sở VM tại Việt Bắc. Trung Tướng Salan lên làm Tư lệnh thay thế De Lattre, ông giao cho Tướng Linares (Tư Lệnh BV) chỉ huy và điều động chiến dịch gồm 4 liên đoàn lưu động, 3 liên đoàn nhẩy dù, 2 tiểu đoàn bộ binh, 2 liên đoàn thiết giáp, 2 hải đoàn xung phong, 2 tiểu đoàn pháo, tổng cộng 30,000 người.
Pháp tảo thanh một vùng rộng lớn giữa sông Hồng và sông Đáy. Bộ chỉ huy đóng tại Việt Trì. Ngày 9-11 các tiểu đoàn nhẩy dù xuống bao vây Phủ Đoan, thị trấn bỏ ngỏ, Pháp chiếm được một kho quân nhu lớn. Ngày 14-11 tới Phủ Yên Bình cách Phủ Đoan 60 km về hướng Bắc không gặp kháng cự, không gặp người dân nào. Pháp mệt mỏi phải rút, VM cho 2 trung đoàn về đối phó. Ngày 17-11 Pháp lọt ổ phục kích VM dài 4km tại thung lũng Chấn Mương từ sáng tới 4 giờ chiều, Pháp nhờ không quân yểm trợ mới thoát ra khỏi, Pháp thiệt hại gần một tiểu đoàn
Pháo Lũy Nasan.
Trong khi ấy, Salan cho lập pháo lũy Nasan, ông chủ trương lập những cứ điểm mạnh dựa trên các sân bay hơn là mở những cuộc hành quân phiêu lưu.
Nasan là một thung lũng dài 2km, ngang 1km, xung quanh có 24 ngọn đồi. Một vị trí chiến lược quan trọng giữa các đường tiến quân tại miền Thái, các ngọn đồi ngăn chận đường tiến quân VM, mục đích của chiến lũy.
1- Để đón các toán quân Pháp rút từ các đồn bị cô lập ở Tây Bắc và Đông Nam
2- Ngăn chận VM tiến về Lai Châu
3- Tiêu diệt chủ lực quân VM nếu họ tấn công
Mặt trận Pháp bị chia làm hai, một ở Nasan và một ở Lai Châu. Pháo lũy Nasan thiết lập đầu tháng 11-1952, được tăng cường ngày 1-11 khi các đơn vị Thái được đưa về đây, một liên đoàn lưu động VN được chở tới bằng máy bay. Ngày 21-11 có ba tiểu đoàn nhẩy dù các pháo đội được đưa tới. Cuối tháng 11-1952 pháo lũy Nasan gồm tổng cộng 10 tiểu đoàn trong đó có lính nhẩy dù, bộ binh, các tiểu đoàn Thái. Ngoài ra còn một tiểu đoàn công binh, một tiểu đoàn pháo binh với 5 pháo đội, 2 chi đoàn thiết giáp, di chuyển khó khăn, bị hạn chế nên chỉ có 10 quân xa tiếp tế, tải thương. Đại tá nhẩy dù Gilles được giao chỉ huy mặt trận này.
VM tấn công đêm 23-11-1952 nhưng bị đẩy lui, đêm 30 rạng 1-12 VM thật sự tấn công lớn nhưng thất bại. Đêm 1 rạng 2-12 VM mở cuộc tấn công quyết liệt suốt đêm, họ chiếm được hai điểm tựa 21bis và 22 bảo vệ sân bay. Pháo binh Pháp bắn liên tục, trận đánh kéo dài tới hôm sau. Pháp cho nhẩy dù xuống đỉnh đồi mới giải tỏa được , VM bỏ lại hơn 600 xác chết và tịch thu được nhiều súng, trận này VM bị thiệt hại nặng, sau đó VM chỉ pháo kích chứ không đánh. Tổng kết mặt trận Nasan Pháp cho biết VM bị mất 5,000 người. Trận miền Thái chấm dứt, Pháp giữ được Lai Châu, Nasan. Người Pháp cho rằng việc thiết lập pháo lũy Nasan là tốt và sau đó họ thiết lập thêm pháo lũy tại cánh đồng Chum, tại Séno, và cuối cùng tại Điện Biên Phủ đưa tới thất bại.
Điện Biên Phủ.
Tháng 5-1953, chính phủ Pháp cử Đại Tướng Henri Navarre sang làm Tư lệnh Đông Dương thay Trung tướng Salan để cứu vãn tình hình quân sự tại đây. Ông cho lập một chiến lũy, một căn cứ lớn tại ĐBP.
Theo Navarre (11) mục đích cho đóng quân tại đây để ngăn chận VM tiến đánh Thượng Lào và tạo mặt trận lớn để địch không đánh châu thổ BV. ĐBP là một khu lòng chảo có núi đồi bao quanh, là một cánh đồng dài 12 km rộng 9 km. Những đỉnh núi cao cách phi trường từ 10 tới 12 km, sẽ thiết lập đồn lũy quanh đó. Khoảng cách này ngoài tầm pháo của địch.
Chiến lũy ĐBP được xây dựng theo kiểu pháo lũy Nasan năm trước, Pháp tin tưởng cũng sẽ chống lại VM hữu hiệu và gây thiệt hại nặng cho đối phương. Navarre cho lập chiến lũy ngoài những mục tiêu kể trên còn để dụ VM lại giết một mẻ lớn làm suy yếu đối phương vì họ nay đã đông, mạnh hơn trước (12). ĐBP cách châu thổ BV 200 km, cách biên giới Tầu 300 km, cách Hà Nội 300 km.
Ngày 13-3-1954 trận đánh khởi đầu, Pháp có 12 tiểu đoàn, trong khi chiến trận diễn ra, Pháp cho nhẩy dù thêm 5 tiểu đoàn, tổng cộng toàn bộ vào khoảng 15,000 người. Phía VM tổng cộng có 5 sư đoàn chính qui vào khoảng 50,000 người, chưa kể 25,000 dân công tiếp tế . VM có 600 xe vận tải chở đạn dược tiếp liệu từ Trung Cộng sang ĐBP.
ĐBP chia làm ba khu, phía Bắc gồm hai căn cứ tại hai ngọn đồi, khu Trung ương gồm 5 trung tâm kháng cự và khu Isabelle ở phía Nam .
Hai tiền đồn phía bắc bị thất thủ vào ngày 13 và 14-3 sau một ngày giao chiến, hỏa lực địch quá mạnh, sau ngày 26-3 chỉ tiếp tế được bằng thả dù, số phận ĐBP đã được định đoạt. Tổng thống Eisenhower và các cố vấn đã nghiên cứu kế hoạch cứu nguy ĐBP bằng oanh tạc ồ ạt, Tòa Bạch ốc đã thảo luận, dự định trong suốt tháng 4-1954 nhưng kế hoạch bất thành.
Trận đánh kéo dài từ ngày 13-3 tới ngày 7-5 thì ĐBP thất thủ, 11 ngàn quân Pháp bị bắt làm tù binh, trên 2,000 bị giết chưa kể trên 2,000 mất tích, VM thiệt hại khoảng 10,000 người.
Pháp thảm bại vì lực lượng địch đông gấp 4 lần, hỏa lực phòng không và pháo binh của VM do Trung Cộng cung cấp rất mạnh. Ngoài ra không quân Pháp thiếu khả năng yểm trợ cho một trận đánh quá lớn. Navarre chưa có kinh nghiệm về Đông Dương đã sai lầm cho lựa chọn trận đánh tại một địa điểm xa xôi chỉ tiếp tế được bằng máy bay mà thực ra không quân Pháp quá yếu, toàn chiến trường Đông Dương họ chỉ có chưa tới 200 máy bay.
ĐBP là trận đánh lớn nhất và quan trọng nhất trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ nhất đồng thời cũng là một trong những trận đánh quan trọng trên thế giới.
Tình hình chính trị
Việt Minh tổng khởi nghĩa cướp chính quyền 19-8. Ngày 25-8-1945, vua Bảo Đại thoái vị, ông được Hồ chí Minh mời làm cố vấn. Tháng 9-1946 ông được đưa qua Trùng Khánh để tiếp xúc với Tưởng Giới Thạch, sau đó Cựu hoàng bỏ trốn qua Hồng Kông.
Khi đã chiếm được được các thành phố tại Trung châu Bắc Việt, Trung Việt, các tỉnh cao nguyên, Nam Bộ. Pháp bằt đầu chiêu dụ dân chúng, đón tiếp người hồi cư, trả lương cho công chức. Dân tản cư kéo về ngày một đông hơn, dân quê có, dân tỉnh hồi cư cũng có, họ không tin tưởng vào cuộc kháng chiến gian khổ và đẫm máu của Việt Minh.
Người Pháp tính tới việc dùng chiến tranh tâm lý, chính trị để tranh thủ nhân tâm, họ cần một người ôn hòa, thân Pháp, được toàn quốc biết tới, giúp họ để chiêu dụ người dân. Cựu hoàng Bảo Đại là người đủ điều kiện và có thẩm quyền nhất, ông đã là vua, được nhân dân kính trọng, có tinh thần quốc gia và công nhận quyền lợi của người Pháp. Họ nghĩ tới cựu hoàng Bảo Đại và tìm cách mời ông về nước. Báo Thời sự ở Hà Nội đưa ý kiến thỉnh cựu hoàng hồi hương lãnh đạo phong trào Quốc gia chống Cộng và dành độc lập.
Nhiều cuộc biểu tình khá lớn để ủng hộ và yêu cầu cựu hoàng về nước cứu vãn thời cuộc như tại Huế ngày 12-8-1947, ở Hà nội ngày 1-9-1947 và cả Sài Gòn (13). Ngài đã là vua nay đứng đầu nước là lẽ tự nhiên , năm 1945 Ngài thoái vị để tránh đổ máu để bây giờ đất nước bị chiến tranh tàn phá.
Giải pháp Bảo Đại được nêu ra từ đầu 1947 nhưng hai năm sau mới thực hiện được.
Nhiều nhà cách mạng lưu vong taị Hồng Kông đề nghị cựu hoàng về gánh vác việc quốc gia, người Pháp cũng liên lạc với ông đề nghị tương tự nhưng ông vẫn dè dặt. Bảo Đại tuyên bố với phái đoàn quốc nội ra mời Ngài về nước, ông nói tôi vì hạnh phúc của dân mà thoái vị, nay nếu nhân dân lại muốn tôi giúp nước và điều đình với Pháp tôi sẽ sẵn sàng nhận để đòi hỏi độc lập thống nhất cho Việt Nam.
Ngày 6-12-1947 Bảo Đại nhận lời mời của Cao uỷ Bollaert và gặp ông tại vịnh Hạ Long để trao đổi nhận xét tình thế rồi lại về Hương Cảng. Ngày 19-12-1947 một phái đoàn gồm ông Nguyễn Văn Xuân, Trần Văn Hữu sang Hương Cảng thúc dục Cựu hoàng về lãnh trọng trách, ông chấp nhận và nói còn phải sang Âu châu vận động.
Kế hoạch thành tựu, ngày mồng 5-6-1948 trên một chiến hạm tại vịnh Hạ Long, Bollaert nhân danh chính phủ Pháp long trọng tuyên bố nước Việt Nam độc lập trong Liên hiệp Pháp. Cựu hoàng Bảo Đại xác nhận chính thức việc điều đình với Pháp trên căn bản đó và công nhận một chính phủ lâm thời do Thiếu tướng Nguyễn Văn Xuân điều khiển. (14)
Trong giai đoạn đầu chính phủ Quốc gia chưa có quyền, chỉ có tính cách tượng trưng, lo giúp dân hồi cư, mở trạm cứu thương, trường học, đáng kể là lập toà án, các đoàn cảnh vệ, trường Võ bị Huế, nơi huấn luyện sĩ quan Quốc Gia Việt Nam đầu tiên.
Ngày 8-3-1949 tại điện Elysée, Cựu hoàng và Tổng thống Pháp Vincent Aurilole trao đổi văn thư thừa nhận Việt Nam Độc Lập trong Liên Hiệp Pháp. Ngày 14-6-1949 Quốc Trưởng Bảo Đại hiệu triệu quốc dân tại toà Đô sảnh Sài Gòn sau khi miền Nam sáp nhập vào lãnh thổ Quốc gia, Cựu Hoàng kêu gọi nhân dân hãy đồng tâm nhất trí. Người dân cho rằng Pháp trả được phần nào hay phần nấy, nay Ngài đã về y như nhà có nóc.
Chính phủ Bảo Đại chấp chính từ tháng 7-1949 đến đầu năm 1950, kế đó là các chính phủ Nguyễn Phan Long 1950, Trần Văn Hữu 1950-1951. Chế độ không có hiến pháp mà chỉ có hai đạo dụ ngày 1-7-1949 về tổ chức công quyền. Quốc trưởng có quyền lập pháp, ban hành đạo dụ, Thủ tướng được ủy nhiệm do Quốc trưởng bổ nhiệm.
Từ 1947, cách đây hai năm, sau khi Pháp mở rộng các khu vực chiếm đóng tại các thành phố miền Bắc và Trung bộ, người dân trong vùng Việt Minh đã trở về các thành phố ngày một đông. Cửa hàng cửa hiệu đã đầy hàng hóa nhập cảng, Pháp tạo không khí sinh hoạt ổn định và lấy lòng dân. Nay Cựu hoàng về nước trị vì đã gây được niềm tin tưởng nơi người dân y như nhà có nóc mà núp, có cột mà dựa. Từ đấy dân chúng hồi cư tấp nập về thành thị, trong tháng 7-1949 mỗi ngày có vài nghìn người, riêng ngày 30-10 tại Bắc Ninh, Hà Nội, Hà Đông, Sơn Tây số người trở về lên tới 35,000 người. Quân Pháp lan tràn kiểm soát vùng duyên hải đông dân như Bùi Chu, Phát Diệm ngày 16-10-1949. Công chức kéo về rất nhiều, chính giới Pháp Việt đã cho giải pháp Bảo Đại đem lại thắng lợi trước cảnh hồi cư đông đúc tại nhiều tỉnh miền Bắc, người dân bỏ già Hồ về với Cựu hoàng.
Diện tích vùng thuộc Pháp tại Trung châu tăng lên gấp ba, số ruộng cầy cấy tăng lên nhiều. Gạo xuất cảng từ 59,000 tấn năm 1945 tăng lên 379,000 tấn năm 1950, nhân công dồi dào, an ninh bảo đảm hơn, các ngành sản xuất than đá, vải sợi, xi măng, đường… đều tiến bộ. Trị giá nhập cảng năm 1946 là 16 tỷ đồng quan Pháp đến năm 1949 tăng lên 73 tỷ đồng. Hàng hoá tràn ngập các cửa tiệm, chợ búa, các ngành sản xuất cũng tiến hẳn lên, lương bổng công tư chức khá cao. Cựu hoàng về nước đem theo nhiều thuận lợi, vùng chiếm đóng nay là vùng Quốc Gia mở rộng dễ dàng, Việt Minh chỉ đột kích, khủng bố chưa có trận đánh lớn. (15)
Từ 1949, chính phủ Quốc Gia Việt Nam đã được một số khá đông các nước công nhận và đã bắt đầu bước vào chính trường ngoại giao, đã được gia nhập trên 30 cơ quan quốc tế với tư cách hội viên: Ủy hội kinh tế Viễn đông Ecafe, Tổ chức Y tế quốc tế, Lao động quốc tế, Lương nông Quốc tế, Văn hóa Quốc tế Unesco… Hoa kỳ đã đặt Phái bộ viện trợ quân sự từ ngày 6-3-1950, viện trợ thương mại từ tháng 7-1950, đã ký kết hiệp ước tương trợ Việt Mỹ.
Quân đội Quốc gia được thành lập và phát triển nhanh, năm 1950 mới có 5 tiểu đoàn, năm 1951 tăng lên 26 tiểu đoàn, năm 1953 lên 6 sư đoàn gồm 167,000 binh sĩ và 3,500 sĩ quan, lương bổng do chính phủ trả tượng trưng một ít còn lại do Mỹ đài thọ. Cấp chỉ huy được đào tạo tại các trường võ bị, trường Võ bị Liên quân Đà Lạt khai giảng 5-11-1950, trường Quân y thành lập 7-8-1950, trường Không quân thành lập 24-6-1951, trường Hải quân từ 1-1-1952. Các tổ chức quân sự khác cũng được thành lập như Toà án quân sự ngày 22-11-1951, Bộ Tổng Tham Mưu ngày 12-4-1952. Nhiều luật lệ quân sự được ban hành : Qui chế Quân đội Dụ số 1 ngày 30-1-1051, Bộ Quân luật Dụ số 8 ngày 14-4-51, Chế độ Quân dịch Dụ số 29 ngày 29-6-53.
Tổ chức Tư pháp và các Toà án Việt nam do Dụ số 4 ngày 18-10-1949, Qui chế các thẩm phán, do các Sắc lệnh ngày 1-12-1950, Toà án Hành chánh được thiết lập từ 5-1-1950.
Hành chánh địa phương: Các Hội đồng đô thành, thành phố và thị xã được tổ chức từ 1952.
Các tổ chức chuyên môn hành chánh như Viện thống kê ngày 10-12-1949, Việt Nam thống tấn xã ngày 22-1-1951, Quốc gia kiến ốc cục 15-6-1951, Sổ số kiến thiết Quốc gia 16-8-1951, Sở Du lịch Quốc gia 5-6-1951, Công ty hàng không 30-10-1951, Trường Quốc Gia Hành chánh 7-4-1952.
Giáo dục văn hoá: Trường Đại Học Văn Khoa, Sở Bảo tồn cổ tích ngày 4-1-1950, Trường Cao đẳng sư phạm 16-1-1950.
Kinh tế xã hội. Bộ Luật Lao động ban hành ngày 10-7-1952, Bộ luật cải cách điền địa ngày 4-6-53.
Qui chế nghiệp đoàn 16-11-1952; Qui chế Công chức Quốc gia Dụ số 9 ngày 14-7-1950; Qui chế các Hiệp hội Dụ số 10 ngày 6-8-1950; Qui chế Thể thao thanh niên Sắc lệnh 53 ngày 17-6-1950; Qui chế Hàng hải Dụ số 6 ngày 19-4-1951; Bộ luật thuế trực thu, gián thu Dụ số 4 ngày 13-4-1953….
Từ tháng 7-1949 đến tháng 7-1954 Quốc gia Việt Nam đã có 8 chính phủ và 5 vị Thủ tướng .
Chính phủ Bảo Đại Từ 1-7-1949 đến 22-1-1950, hơn 6 tháng
Chính phủ Nguyễn Phan Long từ 22-1-1950 đến 6-5-1950, hơn 3 tháng
Chính phủ Trần Văn Hữu từ 6-5-1950 đến 21-2-1951, 9 tháng rưỡi.
Chính phủ Trần Văn Hữu từ 21-2-1951 tới 7-3-1952, 12 tháng rưỡi.
Chính phủ Trần Văn Hữu 7-3-1952 tới 25-6-1952, 3 tháng18 ngày
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 25-6-1952 tới 8-1-1953, 6 tháng rưỡi
Chính phủ Nguyễn Văn Tâm từ 8-1-1953 tới 11-1-1954, 12 tháng 3 ngày
Chính phủ Bửu Lộc từ 11-1-1954 tới 7-7-1954, gần 6 tháng. (16)
Chính phủ Ngô Đình Diệm chấp chính từ ngày song thất 7-7-1954 đúng hai tháng sau ngày Điện Biên Phủ thất thủ, hai tuần trước Hiệp định Genève ký kết ngày 20-7, sau đó chính phủ Quốc gia rút vào Nam
Nhận xét và kết luận.
Việt minh cướp chính quyền năm 1945 và tiêu diệt các đảng phái thành phần yêu nước không Cộng Sản. Ngay từ đầu họ đã gây đổ máu giữa lòng dân tộc trong khi cần đoàn kết để đánh thắng thực dân.
Tướng Navarre , cựu Tư lệnh Đông Dương đã nhận xét về VM như sau : VM hoạt động mạnh tại Bắc phần, họ chờ Nhật thua trận để cướp chính quyền. Họ khéo léo được Mỹ giúp đỡ và dựa vào chính phủ lâm thời Pháp. Họ lấy cảm tình Mỹ, giả vờ là phong trào Quốc gia chống Nhật, chống thực dân. VM lấy lòng chính phủ Pháp mới (chính phủ thân đồng minh), họ lừa gạt chỗ này, bịp bợm chỗ nọ. Họ chống Nhật cho có hình thức để lấy lòng Mỹ (17)
Thật vậy VM tuyên truyền mạnh nên phong trào phát triển nhanh, đồng thời với tuyên truyền họ cũng kết hợp bạo lực cách mạng để ép buộc người ta theo. Như đã nói trên, cuộc tổng nổi dậy của VM cũng đã khiến mấy vạn người phải bị giết oan uổng trong đó có tình nghi, đảng phái Quốc gia không CS, những người thân Pháp. Phong trào VM không phải chỉ gồm toàn là người yêu nước như Tây phương nghĩ mà trong đó nhiều người theo VM vì sợ bị hãm hại.
Trước ngày Trung Cộng chiếm trọn nước Tầu tháng 10-1949, VM còn yếu. Súng đạn của họ một phần do Mỹ giúp để chống Nhật, phần do quân Nhật khi đầu hàng trao lại, họ mua súng lậu của Tầu, nhưng VM cũng đã tổ chức thành nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn và trung đoàn. Giai đoạn này họ tránh đụng chạm với Pháp và kiểm soát được vùng thôn quê.
Người Pháp mặc dù kiểm soát được nhiều thành phố,tỉnh lỵ nhưng thiếu quân số nên không bình định được hết các vùng của VM tại miền Bắc. Khi Mao Trạch Đông đại thắng tại chiến trường Hoa lục thì gió đã đổi chiều với thực dân Pháp. Việt Minh được Tầu giúp vũ khí, huấn luyện tại biên giới đã trở thành một lực lượng quân sự chính qui mạnh đủ khả năng tấn công đồng bằng Bắc bộ. Trận thắng lớn của VM tại Cao Bắc Lạng cuối năm 1951 mở đầu cho thất bại của thực dân Pháp tại Đông Dương.
De Lattre, Tư lệnh Đông dương từ cuối 1950 đã đánh bại được VM nhiều trận trong năm 1951 khiến quân Pháp lên tinh thần. Sang năm 1952 Tướng Salan lên thay De Lattre, VM ngày càng mạnh hơn, quân lưu động ngày một đông hơn Pháp. Giữa năm 1953, Tướng Navarre được cử sang thay Salan khi tình thế ngày càng bất lợi. Pháp quá mệt mỏi vì cuộc chiến sa lầy, trong khi VM được Trung cộng viện trợ quân sự ngày càng dồi dào, quân Pháp tại Đông dương không được tăng viện nhiều, đa số chi phí dựa vào viện trợ Mỹ.
Điện Biên Phủ thất thủ ngày 7-5-1954 sau gần hai tháng cầm cự. Một phần vì sai lầm của Navarre , phần vì Không quân Pháp quá yếu. Toàn chiến trường Đông dương họ chỉ có khoảng 200 máy bay trong khi thập niên 60, 70 tại miền nam VN, không quân Mỹ có nhiều ngàn máy bay, chưa kể không quân VNCH. Hội nghị Genève tiếp theo ngay sau ĐBP đưa tới chia đôi đất nước ngày 20-7-1954.
Trong thời kháng chiến này người dân vùng thôn quê, thượng du vô cùng gian khổ, ban ngày quân Pháp hành quân bắn phá, cướp bóc hãm hiếp. Ban đêm VM về thu thuế, bắt bớ, thủ tiêu tình nghi phản động. Nhiều người trốn lên tỉnh để thoát khỏi cảnh một cổ hai chòng.
Giaỉ pháp Bảo Đại mang lại nhiều thành quả tốt đẹp, người dân từ các vùng lửa đạn đã trốn về thành, họ không tin tưởng cuộc kháng chiến đầy máu lửa của VM. Quốc trưởng Bảo Đại đã xây dựng được nền móng cho chính phủ Quốc gia Việt Nam , tiền thân của Việt Nam Cộng Hòa sau này. Người Pháp ngoan cố theo đuổi chính sách thuộc địa lỗi thời không những bị người bản xứ chống đối mà cả Hoa Kỳ và chính phủ Tưởng Giới Thạch đều không muốn Pháp trở lại Đông Dương. Đối với người Việt quốc gia, quân Pháp là đồng minh chống lại VM Cộng Sản, người Quốc gia tuy hợp tác với Pháp nhưng chỉ chờ thắng được VM để đòi Pháp trao trả độc lập. Thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta năm 1945 nhưng họ cũng chiến đấu chống Cộng Sản bảo vệ chúng ta, xương máu của 75,500 chiến sĩ quân đội Liên hiệp Pháp đã giữ được một nửa nước VN tự do.
Cuộc chiến đẫm máu tám năm khói lửa do VM khởi xướng cuối năm 1946, chấm dứt giữa năm 1954 đã khiến khoảng 300,000 thanh niên tử trận, 500,000 bị thương, thường dân có 150,000 người thiệt mạng. Quân đội Liên hiệp Pháp có 75,500 người tử trận, Quân đội QGVN có 419,000 người gồm cả chết, bị thương và bị bắt (18). Miền Bắc đã trở thành bãi chiến trường, nhiều thành phố, tỉnh lỵ trung du, đồng bằng bị tàn phá.
Mấy năm sau miền nam cũng biến thành bãi chiến trường tàn khốc trong một cuộc chiến khác dài và đẫm máu hơn.
Trọng Đạt
© Đàn Chim Việt
(trích trong Điện Biên Phủ, Kế Hoạch Cứu Nguy, Nguyên Nhân Thất Thủ, in 2014)
————————————————————–
Chú thích
(1) Quân Sử 4, Quân lực VNCH Trong Giai Đoạn Thành Hình, Bộ TTM VNCH trang 11, 12
(2) Sách kể trên trang 95, 96
(3) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 15 nói chúng ta công nhận VN là một nước độc lập, có Quốc hội, Quân đội, Tài chính nằm trong Liên hiệp Pháp, đổi lại chúng ta được thay 200,000 quân Tầu bằng 15,000 quân Pháp phía trên vĩ tuyến 16
(4) Sách kể trên trang 17
(5) Quân sử 4 trang 46, 47, 48
(6) Quân sử 4 trang 124, Street Without Joy trang 32, 33
Trong bài Bataille de la RC4 (wikipedia) , Việt minh có 670 người bị giết, bị thương, Pháp 2,000 ngưòi tử thương, 3,000 bị bắt làm tù binh
(7) Street Without Joy trang 36
(8) Quân sử 125-128, Street Without Joy trang 37- 40
(9) Street Without Joy trang 40
(10) Quân sử 4 trang 133-144
(11) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine , trang 188-200
(12) Bernard Fall, Hell In A Very Small Place , Preface trang ix
(13) Đoàn Thêm, Những Ngày Chưa Quên, Quyển thượng, 1939-1954, trang 144
(14) Sách kể trên trang 158, 160, 161
(15) Sách kể trên, trang 173,174
(16) Sách kể trên trang 206-210
(17) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine trang 13
(18) Wikipedia, Yahoo.fr: Guerre d’Indochine
THEO DÒNG SỰ KIỆN:
Pingback: Danh sách trên 300 cán bộ Cộng Sản có tài sản vài trăm triệu Mỹ kim | Trinhngoctoan's Blog
Pingback: Cán bộ ĐCS VN Xã nghĩa là những “Đại tư-bản đỏ”! | tunhan
Pingback: Danh sách trên 300 cán bộ Cộng Sản có tài sản vài trăm triệu Mỹ kim | My Blog
TÀI LIỆU QUAN TRỌNG
–Việt Nam Cộng Hòa – Sau 30 Năm Tị Nạn csVN tại Hải Ngoại
–Việt Nam Cộng Sản – Sau 30 năm Thống Trị Vietnam
–Cộng Sản Việt Nam – Thanh Trừng Nội Bộ
–Đảng CSVN – Bí mật bán Nước cho Trung Cộng
–Ghi Chú : Việt Nam – Trung Cộng – Đồng Hóa
–Sách lược : Diệt chủng dân tộc Việt của Trung Cộng
–Tài Liệu : Hủy hoại trí tuệ và Đất Nước
–Trung Quốc : Nắm 137 lô đất Chiến Lược tại Đà Nẵng
–Trung Quốc : Chủ Mưu xây dựng Formosa Thải Độc Diệt Chủng VN
–Tòa Trọng Tài LHQ : Bác bỏ “đường lưỡi bò” Trung Quốc
–Nguyên nhân – Thất thủ Điện Biên Phủ
–Tháng Tư Đen – Bí Mật
–Danh sách : Trên 300 Cộng Sản VN có vài trăm triệu USD
–Hàng chục tỷ USD – Tẩu thoát “Ngầm” ra khỏi Việt Nam
–Chỉ thị 45 – CSVN kêu gọi Người Việt hải ngoại xóa bỏ Hận Thù
Thành thật cảm ơn anh Truong Hieu rất nhiều nhiều,cùng ace…..
Kính chúc Gia đình anh cùng ace toàn thể gia quyến nằm mới dồi dào sức khỏe an khang thịnh vượng và vạn sự như ý…….
Reblogged this on CHỐNG TRUNG QUỐC XÂM LẤN VIỆT NAM and commented:
Miệng thì hô hãy chống tham nhũng
Túi nhét bao nhiêu cũng chưa đầy
Quan tham hết cở như vầy
Chống ai thì chống quan nầy chống lưng!
Nguyễn Việt Nam
WWRI, Sunday, June 11, 2017 0855 EST
Reblogged this on Trang Nhà Của Hội Ái Hữu CGS & CHS Trường Trung Học Trịnh-Hoài-Đức Bình Dương.
Pingback: GIẶC ĐÃ ĐẾN NHÀ, TOÀN DÂN VIỆT NAM CÒN ĐỢI GÌ MÀ KHÔNG VÙNG DẬY ! | Đàm Trung Phán
Pingback: GIẶC ĐÃ ĐẾN NHÀ – SOS Vietnam
Pingback: Mỹ có ra sao, người Việt mới đón chào như vậy | Thơ Quê Hương
Pingback: Kêu gọi Tổng bí thư Trọng ‘công khai tài sản’ | CHỐNG TRUNG QUỐC XÂM LẤN VIỆT NAM
Pingback: CSVN mưu toan moi vàng & ngoại tệ của dân – CXN-Châu Xuân Nguyễn
Pingback: CSVN mưu toan moi vàng & ngoại tệ của dân – Nguyễn Xuân Châu
Pingback: CSVN mưu toan moi vàng & ngoại tệ của dân | Nhận thức là một quá trình...